Bài đăng

Đang hiển thị bài đăng từ Tháng 5, 2025

MỘT NGỘ NHẬN SAI LẦM VỀ TIỀN GIẤY

Hình ảnh
Nói đến cải cách của thiên tài sinh nhầm thời - Hồ Quý Ly, mọi người sẽ nghĩ đến điều gì trước tiên? Đa số người được hỏi câu này sẽ trả lời là tiền giấy, ngay trong SGK cũng đưa tiền giấy vào cải cách của nhà Hồ, hay đi xa hơn, nhiều người còn mặc định nhà Hồ là triều đại đầu tiên ban hành/sử dụng tiền giấy trong lịch sử Việt Nam! Nói vậy chúng tôi e là chưa chuẩn lắm. Chúng tôi không phủ nhận nhà Hồ thực sự có những chính sách liên quan đến việc này, nhưng có một điều ít ai nhận ra hoặc phổ biến, đó là cải cách tiền giấy đã có từ cuối thời nhà Trần (1226-1400), chớ không phải mãi đến tận nhà Hồ (1400-1407) mới xuất hiện. Nói có sách, mách có chứng, cứ lật sử liệu gần nhất ghi chép về việc ấy là Đại Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển VIII, sẽ thấy một đoạn như sau: “Bính Tý, [Quang Thái] năm thứ 9 [1396], (Minh Hồng Vũ năm thứ 29). Mùa hạ, tháng 4, bắt đầu phát [tiền giấy] Thông bảo hội sao. In xong, ra lệnh cho người đến đổi, cứ 1 quan tiền đồng đổi lấy 1 quan 2 tiền giấy. Thể thức...

MỘT NGỘ NHẬN SAI LẦM VỀ NHÀ NGUYỄN

Hình ảnh
Trước hết, chúng tôi phải lưu ý rằng bài viết không nhằm mục đích biện hộ cho nhà Nguyễn (1802-1945), mà từng nét mực đang được viết trên tinh thần “gặp chỗ đáng nghi trong sử thì cần biện bạch để mong rõ sự thật”. Nên những ai không muốn tìm đến sự thật đã qua, mà chỉ muốn tự lừa dối bản thân thì có thể lướt qua bài này nhé. Đi vào nội dung, từ thế kỷ trước đến nay có một thông tin mà nhiều người đến tận thời điểm này vẫn còn tin tưởng, đó là nhà Nguyễn, hay nói cho đúng là 50 năm đầu của triều đại này (tương ứng với thời gian trị vì của vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức) có 400 cuộc khởi nghĩa/nổi dậy chống triều đình Huế (nhiều nguồn khác nhau sẽ thay đổi, có thể là 300, có lúc lên đến tận 500 cuộc). Vấn đề ở những số liệu này, là nó không có căn cứ! Thật vậy, theo như chúng tôi nghiên cứu được, thì người đầu tiên đưa ra số liệu kia là sử gia Chu Thiên vào năm 1960 trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 19, qua bài viết dưới nhan đề “Mấy Nhận Xét Nhỏ Về Những Cuộc Nông Dân Khở...

NHÂN VẬT LỊCH SỬ ĐẦU TIÊN CẤM SỬ DỤNG HAI TỪ “AN NAM”

Hình ảnh
Nhân những ngày gần đây, trên mạng xã hội đang nổi lên những cuộc tranh luận xoay quanh hai từ “An Nam”: người thì lập luận rằng đây là hai từ đáng nhục, là cái danh xưng mà nhà Đường đặt ra để chỉ nước ta (An Nam đô hộ phủ) hay thực dân Pháp sau này dùng để gọi người Việt (Annamite), được hiểu theo nghĩa đầy tiêu cực, mang hàm ý khinh miệt; người thì lập luận rằng đây là hai từ bình thường, được chính cha ông chúng ta tự gọi/tự đặt một cách thông dụng trong lịch sử (như An Nam tứ đại khí, Yêu sách của nhân dân An Nam, An Nam Cộng sản Đảng…). Chúng tôi, với mong muốn cuộc tranh luận sẽ nhanh chóng đạt được kết quả, xin phép được cung cấp một thông tin thú vị có liên quan đến chủ đề trên. Cụ thể, không chỉ có mỗi người hiện đại như chúng ta mới lên án việc sử dụng hai từ “An Nam”, mà chính vua Gia Long (1762-1820) ngày trước cũng có văn bản hành chính phê phán về vấn đề này. Đọc đến đây, tất sẽ có bạn tự hỏi, vua Gia Long mà làm vậy sao? Thì cứ lật Đại Nam thực lục - Đệ nhất kỷ - Quyển ...

CHẾ ĐỘ THƯỢNG HOÀNG NHÀ TRẦN VÀ VÀI THỐNG KÊ

Hình ảnh
Năm 1225, Trần Cảnh lên ngôi vua khi chỉ mới 8 tuổi, trước bối cảnh ấy, Trần Thủ Độ đã chủ trương: “... Nhị lang (tức Trần Cảnh) chưa am hiểu việc nước, chính sự nhiều chỗ thiếu sót, vận nước mới mở, lòng dân chưa phục, mối họa không phải là nhỏ. Ta (tức Trần Thủ Độ) tuy là chú nhưng không biết chữ nghĩa gì, còn phải rong ruổi đông tây để chống giặc cướp, không gì bằng mời thánh phụ (tức Trần Thừa) làm thượng hoàng tạm coi việc nước, một hai năm sau thiên hạ nhất thống, lại giao quyền chính cho Nhị lang” (Toàn Thư). Tưởng là việc quyền biến theo lối phụ chính tạm thời thay vua nhỏ, nào ngờ, điều đó đã trở thành một thể chế đặc thù cho vương triều Trần: chế độ thượng hoàng - vua. Bảng thống kê sau đây sẽ phản ánh chế độ độc đáo đó (xem ảnh). Từ bảng thống kê trên, chúng ta thấy: + Theo sử cũ, Trần Thừa làm thượng hoàng cho đến năm ông ta mất là năm 1234, thọ 51 tuổi, lúc đó Thái Tông 16 tuổi. Thái Tông làm vua một mình được 17 năm, đến 41 tuổi mới nhường ngôi cho con. Như vậy, Thái Tông...

HỌ MẸ CÁC VỊ VUA TRẦN

Hình ảnh
Nhận xét về vấn đề hôn nhân của nhà Trần, sử quan Ngô Thì Sĩ lên án: “Than ôi! Gây dựng nên triều đình nhà Trần là triều đình dâm loạn như loài chim muông là tự việc Thủ Độ lấy Thiên cực mở đầu ra đó” Liệu có đến mức "dâm loạn" như cụ nói không, bài viết này không có tham vọng trả lời hoàn toàn, mà chỉ hệ thống lại tư liệu về vấn đề hôn nhân của triều đại thú vị này thông qua nghiên cứu họ mẹ của các ông vua. Đi vào nội dung: - Trần Thái Tông (1225 - 1258): Thân mẫu không rõ tên, người họ Lê. Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ, Q5(a), tr. 2) chép: “vua là con thứ của Thừa, mẹ họ Lê”. - Trần Thánh Tông (1258 - 1278): Thân mẫu là Hiển Từ Thuận Thiên hoàng thái hậu, người họ Lý. Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ, Q5(a), tr. 30) chép: “con trưởng dòng đích của Thái Tông, mẹ là Hiển Từ Thuận Thiên hoàng thái hậu Lý thị”. - Trần Nhân Tông (1278 - 1293): Thân mẫu là Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu, người họ Trần. Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ, Q5(b), tr. 12) chép: “con trưởng của...

QUÂN ĐỘI MỸ NGÀY NAY KHÔNG THỂ NÀO ĐEM RA SO SÁNH ĐƯỢC VỚI ĐẠO QUÂN CỦA THÀNH CÁT TƯ HÃN VÀ HỐT TẤT LIỆT!

Hình ảnh
Câu nói nghe hết sức hùng hồn trên đây là lời cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trả lời những “sứ giả” của Henry Kissinger. Chuyện là vào năm 1967, Mỹ (mà đại diện của chính phủ là Henry Kissinger) đã cử hai ông người Pháp Raymond Aubrac và Herbert Marcovich bí mật đến Hà Nội nhằm thăm dò lập trường của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Ngày 24 tháng 7, ông Aubrac được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp và hai lần, ngày 24 và 25, hai ông Aubrac và Marcovich được Thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp. Trong những ghi chép của hai ông sau những cuộc tiếp xúc ở Hà Nội (mà một bản đã được chuyển đến tay Tổng Đại diện Mai Văn Bộ, nên những điều ta được biết ở đây là do tác giả trích dịch trong hồi ký của mình), có chi tiết trong buổi tiếp xúc lần thứ hai với Thủ tướng Phạm Văn Đồng, ông có nói một câu cứng rắn rằng: “Hiện nay, và trong những tuần sắp tới, quan trọng hơn hết là vấn đề đê điều. Mỹ sẽ lợi dụng mùa mưa trong tuần tới. Chúng tôi sẵn sàng đánh trả. Tiềm lực quân sự của chúng tôi đã được tăng cường nhờ có sự giú...

VUA GIA LONG ĐẶT QUỐC HIỆU TRỞ LẠI ĐẠI VIỆT

Hình ảnh
Nguyễn Phúc Ánh sau khi xưng đế tại Phú Xuân, đặt niên hiệu Gia Long (1802-1820), đã cử Nguyễn Quang Định sang nhà Thanh để cầu phong quốc hiệu là Nam Việt (trước đó có cử Trịnh Hoài Đức làm chánh sứ sang nhà Thanh, nhưng vì thất bại trong vấn đề quốc hiệu nên lần này cử lại). Nhà Thanh không chấp thuận quốc hiệu Nam Việt nên đã đổi chỗ hai chữ và đề nghị tên Việt Nam, nhà Nguyễn vì quan hệ hữu hảo giữa hai nước mà chấp thuận quốc hiệu Việt Nam do nhà Thanh đặt, từ đó cho đến năm 1838, vua Minh Mạng sẽ đặt quốc hiệu mới là Đại Nam và quyết định áp dụng kể từ năm sau đó. Đây là kiến thức phổ biến, nghĩa là ít nhất dưới thời trị vì của vua Gia Long, quốc hiệu nước ta vẫn còn là Việt Nam. Tuy nhiên, căn cứ theo bộ tư sử Quốc sử di biên (Phan Thúc Trực (bản dịch của Viện Sử Học, 2009), Nhà xuất bản Văn Hóa - Thông Tin), thì vua Gia Long vào năm 1812, có vẻ vì không hài lòng với quốc hiệu Việt Nam do nhà Thanh đặt, đã đặt lại quốc hiệu cũ là Đại Việt cho nước ta, cụ thể, tại trang 132, sách...

QUY TẮC NGẦM TRONG SỬ SÁCH VIỆT NAM

Hình ảnh
Đọc qua lịch sử Việt Nam, ta sẽ thấy rằng, những ông vua chính thống, lên ngôi trong hoàn cảnh bình thường thì lai lịch ra đời cũng rất bình thường, cùng lắm chỉ là một giấc mộng lạ của người mẹ khi mang thai hoặc vài điềm tốt lúc sinh nở. Ngược lại, những ông vua lên ngôi bất thường, chẳng hạn các ông vua khai nghiệp của một triều đại, hoặc những ông vua được đưa lên ngôi sau một cuộc binh biến chốn cung đình, sẽ thường có lai lịch thần kỳ hoặc điềm lạ đính kèm để bồi đắp uy tín, thu phục lòng người. Trước hết, hãy bàn về các ông vua khai nghiệp. Đinh Tiên Hoàng từng được rồng vàng che chở khi gặp nguy hiểm: “Người chú của vua giữ sách Bông chống đánh với vua. Bấy giờ, vua còn ít tuổi, thế quân chưa mạnh, phải thua chạy. Khi qua cầu ở Đàm Gia Nương Loan, cầu gãy, vua rơi xuống bùn, người chú toan đâm, bỗng thấy hai con rồng vàng hộ vệ vua, nên sợ mà lui. Vua thu nhặt quân còn sót, quay lại đánh, người chú phải hàng. Từ đấy ai cũng sợ phục, phàm đi đánh đến đâu đều dễ như chẻ tre, gọi ...

VUA TỰ ĐỨC TỪNG MUỐN ĐỔI QUỐC HIỆU THÀNH.. TỐNG

Hình ảnh
Châu bản triều Tự Đức ngày 21/12/1868 (Châu bản số 446, Kho lưu trữ Trung ương II, được lược thuật trong Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học (2003), Châu bản triều Tự Đức 1848-1883, Nxb. Văn học, trang 146) có ghi chép nhiều lời góp ý của quan lại nhà Nguyễn xung quanh một số quan điểm của vua Tự Đức (1829 - 1883). Trong đó, có một chi tiết: “Vấn đề đổi quốc hiệu thành Tống như theo ý kiến của vua Tự Đức, vì đất cũ của nhà Nguyễn là ở huyện Tống Sơn. Đình thần đề nghị không nên vội vã, lấy quốc hiệu là Tống, có thể không ổn”. Tức theo nội dung Châu bản trên, vua Tự Đức vào năm 1868 có ý tưởng táo bạo là sẽ đổi quốc hiệu Đại Nam sang Tống “vì đất cũ của nhà Nguyễn là ở huyện Tống Sơn”, thực tế lịch sử cuối cùng vua đã đổi ý và Việt Nam không lấy quốc hiệu Tống nữa, một thông tin lịch sử lạ lùng thật.

BẮT ĐẦU TÌM HIỂU LỊCH SỬ VIỆT NAM THÌ NÊN ĐỌC SÁCH NÀO?

Hình ảnh
Đây là câu mà tôi được hỏi nhiều nhất, tôi thì đọc không nhiều sách lịch sử cho lắm nên trong phạm vi sách đã đọc tôi mới đề xuất nhé. Để trả lời câu hỏi này, cần hiểu lịch sử Việt Nam rất rộng, có nhiều thời kỳ nhiều vấn đề trong đó, nếu bạn đang nhập môn thì hãy xác định trước bản thân mong tìm hiểu về thời gian nào (cổ đại trung đại cận đại hiện đại? nhà Nguyễn? Hồ Quý Ly?), mảng gì (chính trị? xã hội? kinh tế?)... còn mơ hồ hoặc muốn tìm hiểu lịch sử Việt Nam dưới dạng thông sử, khái quát theo chiều dài thời gian thì tôi có thể chia làm hai hướng: Tìm hiểu theo văn phong hiện đại, dễ đọc dễ nhớ, thì tôi khuyên bạn nên đọc những đầu sách sau: - Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim: Sách này cô đọng và dễ hiểu. Nhược điểm là có nhiều thiếu sót vì ra đời lâu rồi. - Các triều đại Việt Nam của Quỳnh Cư và Đỗ Đức Hùng: Sách này dễ nắm bắt, nội dung phong phú. Nhược điểm là thiếu nguồn. - Thế thứ các triều vua Việt Nam của Nguyễn Khắc Thuần: Sách này nhiều số liệu và funfacts về từng triều...

AI LÀ NGƯỜI ĐẦU TIÊN KỂ CHUYỆN BÙI THỊ XUÂN BỊ HÀNH HÌNH?

Hình ảnh
Câu chuyện nữ tướng Bùi Thị Xuân bị vua Gia Long Nguyễn Ánh hành hình "đầy dã man" dưới hình phạt voi giày thì tôi nghĩ nhiều người đã từng nghe qua rồi (chưa nghe thì có thể xem hình). Thực ra câu chuyện này bắt nguồn từ ghi chép của giáo sĩ de La Bissachère (1764-1830), về độ xác thực đã được nhiều người chứng minh là không hợp lý. Điều mà tôi băn khoăn bấy lâu nay là ai là người đầu tiên "nhập cảnh" câu chuyện trên về sử sách nước mình, nhiều người nói với tôi là phía tuyên giáo, tuy nhiên sau quá trình tìm tòi nghiêm túc, thì tôi phát hiện thấy câu chuyện trên lần đầu tiên được trích dẫn là trong sách Việt sử tân biên, tập 4, trang 245-246 của sử gia VNCH Phạm Văn Sơn, xuất bản năm 1961. Đây đơn giản là sự tìm tòi chủ quan của tôi thôi, mọi người nếu phát hiện thấy sách nào trích dẫn sớm hơn thì có thể chia sẻ bên dưới nhé.

VUA MINH MẠNG VÀ CHỮ NẾU

Hình ảnh
Lại tiếp tục với những lời vua Minh Mạng bảo Phan Huy Thực sau khi xem sách sử, lần này câu chuyện lại khá gần gũi với chúng ta khi vua cũng biết đặt mệnh đề “nếu... thì”. Cụ thể, Đại Nam Thực Lục (chính biên - đệ nhị kỷ - quyển XLIV - Thực lục về thánh tổ nhân hoàng đế) có dẫn lại lời vua rằng: “Trận đánh ở bến Bồ Đề, Nguyễn Huệ đánh một trận diệt mấy vạn quân Thanh mà vua nhà Thanh mới chán việc binh, bèn lấy việc nhà Minh làm răn, không đánh lại nữa. Song năm ấy, quân ta đã lấy lại được Gia Định, thanh thế đã hơi mạnh. Nếu quân Thanh lại sang, thì giặc Huệ trước sau bị đánh, còn chạy đi đâu?”. Hẳn là “nếu quân Thanh lại sang, thì giặc Huệ trước sau bị đánh, còn chạy đi đâu?”. Ý tưởng về một cái thế gọng kìm, phía Bắc có quân Thanh, phía Nam có quân Nguyễn Ánh, cùng nhau tấn công quân Tây Sơn ở giữa của vua Minh Mạng nghe thú vị thật, nhưng giả sử nó có xảy ra đi, thì chưa chắc nước ta sẽ được thống nhất về một mối từ Nam chí Bắc đâu, mà Nguyễn Ánh có khi còn thêm nhiều khuyết điểm t...

VUA MINH MẠNG VÀ LÊ CHIÊU THỐNG

Hình ảnh
Đại Nam Thực Lục (chính biên - đệ nhị kỷ - quyển XLIV - Thực lục về thánh tổ nhân hoàng đế) chép có lần vua Minh Mạng xem sách sử, rồi bảo Phan Huy Thực rằng: “Nhà Lê đến Duy Kỳ sang nước Thanh là hết. Duy Kỳ đã nối chính thống nhà Lê mà đến nỗi róc tóc làm tôi tớ người, chẳng quá lầm à. Sau khi chết, nhà Thanh cho đem hài cốt về, triều ta không tặng thuỵ hiệu là phải đấy”. Qua đó cho ta thấy được vua Minh Mạng chẳng có ấn tượng tốt đẹp gì với ông vua cuối cùng của nhà Lê là Chiêu Thống Duy Kỳ, đến mức còn tuyên bố chua chát rằng “triều ta không tặng thuỵ hiệu là phải đấy”. Thì đúng là đời vua Minh Mạng (và sau đó là Thiệu Trị) không tặng thụy hiệu cho ông vua “quá lầm” trên, vẫn “là phải đấy”, nhưng đến đời cháu nội vua là Tự Đức thì... chưa chắc. Cụ thể, Đại Nam Thực Lục (chính biên - Đệ tứ kỷ - quyển LXVIII - Thực lục về dực tông anh hoàng đế) chép: “Sai bàn kỹ về thuỵ hiệu xuất đế nhà Lê. Vua cho là xuất đế nhà Lê nối theo đời cuối nhà Lê, việc nước nát loạn quá lắm, dẫu có người h...

SỰ KIỆN VUA TRẦN THÁI TÔNG TỪ BỎ NGAI VÀNG ĐỂ ĐI TU

Hình ảnh
Trước hết, xin được giới thiệu sự kiện trên tiêu đề qua Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Bản Kỷ - Quyển V), như sau: “Đinh Dậu, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 6 [1237], (Tống Gia Hy năm thứ 1). Lập công chúa Thuận Thiên họ Lý, là vợ của Hoài Vương Liễu, anh vua, làm hoàng hậu Thuận Thiên. Giáng Chiêu Thánh làm công chúa. Bấy giờ Chiêu Thánh không có con mà Thuận Thiên đã có mang Quốc Khang 3 tháng. Trần Thủ Độ và công chúa Thiên Cực bàn kín với vua là nên mạo nhận lấy để làm chỗ dựa về sau, cho nên có lệnh ấy. Vì thế, Liễu họp quân ra sông Cái làm loạn. Vua trong lòng áy náy, ban đêm, ra khỏi kinh thành đến chỗ Quốc sư Phù Vân (Quốc sư là bạn cũ của Thái Tông) trên núi Yên Tử rồi ở lại đó. Hôm sau, Thủ Độ dẫn các quan đến mời vua trở về kinh sư. Vua nói: “Vì Trẫm non trẻ, chưa cáng đáng nổi sứ mệnh nặng nề, phụ hoàng lại vội lìa bỏ, sớm mất chỗ trông cậy, nên không dám giữ ngôi vua mà làm nhục xã tắc”. Thủ Độ cố nài xin nhiều lần vẫn chưa được vua nghe, mới bảo mọi người rằng: “Xa giá ở đâu tứ...

VUA MINH MẠNG VÀ GIẤC MƠ KỲ LẠ

Hình ảnh
Nếu có ai đó hỏi tôi đâu là ghi chép “đáng sợ” nhất trong sử Việt, thì câu trả lời của tôi sẽ là giấc mơ của vua Minh Mạng. Đại Nam Thực Lục (chính biên - đệ nhị kỷ - quyển IV - Thực lục về thánh tổ nhân hoàng đế) chép lời của vua Minh Mạng kể các bầy tôi, như sau: “Khi trẫm mới lên ngôi, từng nằm nệm rơm tại điện Quang Minh, nằm mơ thấy các quan đội mũ mặc áo, đứng la liệt ở dưới thềm. Trẫm nghĩ rằng nhà Lương am (tức chỗ vua ở trong khi có tang) không phải là chỗ triều hội, sai hỏi, và đòi áo mũ để ra, thì thấy các quan giữ việc ở trước đều không phải là người quen mặt. Phải chăng là các công thần ngày trước âm thầm phù hộ ru”. Thực ra thì câu chuyện trên cũng dễ giải thích, vua Minh Mạng lên ngôi trong sự phản đối của nhiều công thần (mà nổi bật có Nguyễn Văn Thành…), thế chưa vững, thì việc cho thấy mình được “phù hộ” bởi “các công thần ngày trước”, ít nhiều cũng sẽ làm tăng thêm sự uy tín cho vị vua này (cũng như để dằn mặt những công thần còn chưa phục). Dù vậy, việc vua Minh Mạn...

ĐỐI CHIẾU AN NAM CHÍ LƯỢC VỚI CHÍNH SỬ VIỆT NAM

Hình ảnh
- Dẫn luận: An Nam Chí Lược là một bộ sử viết bằng văn xuôi chữ Hán do Lê Tắc/Lê Trắc (1263-1342) biên soạn khi sống lưu vong tại Trung Quốc vào khoảng nửa đầu thế kỷ IX. Nội dung sách ghi chép hỗn hợp về địa lý, lịch sử, văn hóa... của nước ta từ ban đầu đến cuối đời Trần: “Riêng Lê Tắc khi trốn sang Tàu còn viết được bộ sử An Nam chí lược để đời, được một người đương thời viết lời tựa khen là “không thua gì sách của Tư Mã Thiên và Ban Cố hồi trước”, đã được cả Việt Nam và Trung Quốc in lại nhiều lần như một sử liệu có giá trị tham khảo tốt” (Trần Văn Chánh (2011). “Tản mạn về quan điểm, phương pháp và thái độ nghiên cứu sử học”. Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (87), tr. 115) . Nhưng khi nhắc đến An Nam Chí Lược, chúng ta cần biết tác giả Lê Tắc của bộ tư sử này là một tên phản bội Tổ quốc: “ Đời vua Nhân Tông nhà Trần, vào năm Thiệu Bảo thứ bảy (1285), quân Ô Mã Nhi kéo đến Đông Bộ Đầu (tức là bờ sông Nhị Hà). Nước mình dẫu cơ hồ bị giãy bằng như bãi đất, nhưng trong nư...