SỰ KIỆN VUA TRẦN THÁI TÔNG TỪ BỎ NGAI VÀNG ĐỂ ĐI TU

Trước hết, xin được giới thiệu sự kiện trên tiêu đề qua Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Bản Kỷ - Quyển V), như sau:


“Đinh Dậu, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 6 [1237], (Tống Gia Hy năm thứ 1).

Lập công chúa Thuận Thiên họ Lý, là vợ của Hoài Vương Liễu, anh vua, làm hoàng hậu Thuận Thiên. Giáng Chiêu Thánh làm công chúa.

Bấy giờ Chiêu Thánh không có con mà Thuận Thiên đã có mang Quốc Khang 3 tháng. Trần Thủ Độ và công chúa Thiên Cực bàn kín với vua là nên mạo nhận lấy để làm chỗ dựa về sau, cho nên có lệnh ấy. Vì thế, Liễu họp quân ra sông Cái làm loạn.

Vua trong lòng áy náy, ban đêm, ra khỏi kinh thành đến chỗ Quốc sư Phù Vân (Quốc sư là bạn cũ của Thái Tông) trên núi Yên Tử rồi ở lại đó.

Hôm sau, Thủ Độ dẫn các quan đến mời vua trở về kinh sư. Vua nói: “Vì Trẫm non trẻ, chưa cáng đáng nổi sứ mệnh nặng nề, phụ hoàng lại vội lìa bỏ, sớm mất chỗ trông cậy, nên không dám giữ ngôi vua mà làm nhục xã tắc”.

Thủ Độ cố nài xin nhiều lần vẫn chưa được vua nghe, mới bảo mọi người rằng: “Xa giá ở đâu tức là triều đình ở đó”.

Thế rồi cắm nêu trong núi, chỗ này là điện Thiên An, chỗ kia là các Đoan Minh, sai người xây dựng. Quốc sư nghe thấy thế bèn, tâu rằng: “Bệ hạ nên gấp quay xa giá trở về, chớ để làm hại núi rừng của đệ tử”.

Vua bèn trở về kinh đô”.

Còn sau đây, tôi xin được giới thiệu sự kiện trên qua chính hồi ức của vua Trần Thái Tông (tức Trần Cảnh), được chép trong bài tựa của Thiền Tôn Chỉ Nam, như sau:

“... Mới mười sáu tuổi thì Thái hậu chán đời, Trẫm nằm rơm gối đất, lệ huyết xót lòng, ngoài sự đau buồn không rỗi mà làm việc khác. Chỉ khoảng vài năm Thái Tổ Hoàng đế (tức Trần Thừa - ĐQTS) lại kế mà yên giá, nỗi thương mẹ khuất chưa nguôi, nỗi đau cha về càng thiết, nhức nhối thê thảm, khôn khuây trong lòng. Nghĩ cha mẹ đối với con, vỗ xoa nuôi nấng, không gì chẳng làm rất mực, dù tan xương nát thịt còn chưa đủ để báo một muôn. Huống chi cha Trẫm là Thái Tổ Hoàng đế, mở nền dựng nghiệp, công việc gian nan, trị nước cứu đời, gánh vác càng nặng, lấy vật lớn trao cho Trẫm còn non trẻ, đêm lo ngờm ngợp, ngày chẳng ngồi yên. Trẫm tự nhủ riêng rằng: Trên đã không còn có cha mẹ để cậy nhờ, dưới sợ không đủ đáp lòng trông của dân chúng, làm sao bây giờ? Bèn nghĩ rằng: Chi bằng lui ở lâm tuyền mà cầu Phật giáo, để tỏ rõ cái lẽ sống chết, lại để báo đáp cái đức cù lao. Thế là chí Trẫm bèn quyết.

Năm thứ 5 hiệu Thiên Ứng Chính Bình (1236), đúng đêm mồng ba tháng tư năm Bính Thân, nhân vi hành ra cửa cung, bảo người tả hữu rằng:

- “Trẫm muốn ra chơi để ngầm nghe lời dân mà xem ý dân thế nào, ngõ hầu mới biết công việc là khó”.

Bấy giờ người tả hữu đi theo chẳng qua bảy, tám người. Giờ Hợi đêm ấy, một ngựa mà lẻn ra, qua sông mà đi về phía đông, bèn lấy tình thực bảo người tả hữu. Người tả hữu ngạc nhiên, ai nấy đều khóc.

Giờ Mão ngày sau thì đến bến đò Phả Lại sông Đại Than, sợ người ta biết, lấy vạt áo che mặt mà qua sông, tắt qua núi mà đi. Đến chập tối thì vào ngủ ở chùa Giác Hạnh, chờ sáng mai lại đi. Gập ghềnh trèo lội, núi thảm khe sâu, ngựa mỏi mà không thể tiến, Trẫm bèn bỏ ngựa leo dốc mà đi, giờ Mùi mới đến đầu núi Yên Tử. Sớm mai lên thẳng đỉnh núi, thăm Quốc sư Trúc Lâm đại sa môn. Sư thoạt thấy mừng rỡ, thung dung bảo Trẫm rằng:

- “Lão sư ở lâu núi rừng, xương cứng vóc gầy, ngon chè bùi lật, uống suối chơi rừng, lòng như phù vân, theo gió mà đến. Nay Bệ hạ lại từ bỏ cái thế đế vương mà nghĩ đến cảnh bên rừng núi, vì sao đến nông nỗi ấy!”.

Trẫm nghe nói thế, nước mắt ròng ròng, nhân cáo với sư rằng:

- “Trẫm còn non trẻ, bỗng mất hai thân, một mình đứng trên sĩ dân, không nơi nhờ cậy. Lại nghĩ đế vương đời trước, sự nghiệp hưng suy chẳng thường, cho nên Trẫm vào núi này, mong cầu làm Phật, không cầu gì khác”.

Sư nói:

- “Trong núi vốn không có Phật, chỉ có trong lòng. Lòng lặng mà biết, ấy là chân Phật. Ví bằng Bệ hạ giác ngộ lòng ấy, thì lập tức thành Phật, không phải nhọc cầu ở ngoài”.

Bấy giờ thúc phụ Trần công (tức Trần Thủ Độ - ĐQTS) là em họ được tiên quân ký thác con côi, sau khi tiên quân bỏ bầy tôi, Trẫm phong làm Thái sư tham phụ quốc chính, nghe tin Trẫm bỏ đi, chia sai tả hữu đi tìm dấu vết khắp nơi, bèn cùng với các vị quốc lão tìm đến núi này. Gặp Trẫm, Thái sư nói thống thiết rằng:

- “Thần được tiên quân ký thác, thờ Bệ hạ làm chúa dân thần, nhân dân mến đội Bệ hạ cũng như con nhỏ yêu mến cha mẹ. Huống chi ngày nay các cố lão trong triều, chẳng ai chẳng phải là tôi thân thích, nhân dân sĩ thứ, chẳng ai chẳng phải là chúng vui theo. Cho đến đứa trẻ ba thước đều biết Bệ hạ là cha mẹ của dân cả. Vả chăng Thái Tổ bỏ thần mà đi, chén rượu đổ mặt đất chưa khô, lời nói dặn bên tai còn đấy, thế mà Bệ hạ lại giấu vết ở núi rừng, ở ăn mà cầu toại chi! Đối với thần mà nói, Bệ hạ tính việc tự tu thì cũng tốt, nhưng đối với quốc gia xã tắc thì sao? Phỏng để lời nói không mà bảo đời sau, sao bằng lấy thân mình ở trước thiên hạ! Ví dụ Bệ hạ không nghĩ lại, thì bọn thần và người nước cùng chết ngày nay thôi, quyết không trở về”.

Trẫm thấy Thái sư cùng các bề tôi cố lão không có ý bỏ Trẫm, bèn đem lời ấy cáo với Quốc sư. Sư cầm tay Trẫm mà nói rằng:

- “Phàm người làm vua, lấy muốn của thiên hạ làm muốn của mình, lấy lòng của thiên hạ làm lòng của mình. Nay bề tôi muốn rước Bệ hạ về thì Bệ hạ sao có thể không về được? Song nghiên cứu Phật điển, xin Bệ hạ chớ quên điều ấy mà thôi”.

Do đấy Trẫm cùng các vị quốc lão về Kinh, gắng lại lên ngôi”.

Qua hai tài liệu đã được tôi trích dẫn, ta có thể dễ dàng nhận thấy nhiều điểm đại đồng tiểu dị, như việc vua Trần Thái Tông, trong hồi ức của mình, chỉ thừa nhận rằng ngài từ bỏ ngai vàng để đi tu là vì “trên đã không còn có cha mẹ để cậy nhờ, dưới sợ không đủ đáp lòng trông của dân chúng”, hoàn toàn không hề đề cập đến nhân vật Trần Liễu, hay sự kiện tai tiếng “lập công chúa Thuận Thiên họ Lý, là vợ của Hoài Vương Liễu, anh vua, làm hoàng hậu Thuận Thiên” như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép; hay chi tiết Thái sư Trần Thủ Độ tuyên bố: “xa giá ở đâu tức là triều đình ở đó”, rồi cho người “cắm nêu trong núi, chỗ này là điện Thiên An, chỗ kia là các Đoan Minh, sai người xây dựng”, khiến Quốc sư Phù Vân phải lo lắng mà khuyên vua rằng: “Bệ hạ nên gấp quay xa giá trở về, chớ để làm hại núi rừng của đệ tử” như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép, đã vô tình khiến hình ảnh Thái sư lẫn Quốc sư trong mắt hậu thế bị ảnh hưởng không nhỏ, vì cứ theo lời vua Trần Thái Tông kể lại, thì Trần Thủ Độ có cho người “làm hại núi rừng” đâu? Lời Quốc sư khuyên bảo: “phàm người làm vua, lấy muốn của thiên hạ làm muốn của mình, lấy lòng của thiên hạ làm lòng của mình” lại chẳng thiết thực, thể hiện sự cao siêu của một bậc cao tăng đã đắc đạo, chớ có phải chỉ biết lo lắng cho “núi rừng của đệ tử” thôi đâu?




Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

MỘT NGỘ NHẬN SAI LẦM VỀ TIỀN GIẤY

NGHI VẤN VỀ ĐẠI VIỆT SỬ KÝ CỦA LÊ VĂN HƯU

ĐỐI CHIẾU AN NAM CHÍ LƯỢC VỚI CHÍNH SỬ VIỆT NAM