ĐỐI CHIẾU AN NAM CHÍ LƯỢC VỚI CHÍNH SỬ VIỆT NAM
- Dẫn luận:
An Nam Chí Lược là một bộ sử viết bằng văn xuôi chữ Hán do
Lê Tắc/Lê Trắc (1263-1342) biên soạn khi sống lưu vong tại Trung Quốc vào khoảng
nửa đầu thế kỷ IX. Nội dung sách ghi chép hỗn
hợp về địa lý, lịch sử, văn hóa... của nước ta từ ban đầu đến cuối đời Trần: “Riêng
Lê Tắc khi trốn sang Tàu còn viết được bộ sử An Nam chí lược để đời, được một
người đương thời viết lời tựa khen là “không thua gì sách của Tư Mã Thiên và
Ban Cố hồi trước”, đã được cả Việt Nam và Trung Quốc in lại nhiều lần như một sử
liệu có giá trị tham khảo tốt” (Trần Văn Chánh
(2011). “Tản mạn về quan điểm, phương pháp và thái độ nghiên cứu sử học”. Tạp
chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (87), tr. 115).
Nhưng khi nhắc đến An Nam Chí Lược, chúng ta cần biết tác
giả Lê Tắc của bộ tư sử này là một tên phản bội
Tổ quốc: “Đời vua Nhân Tông nhà Trần, vào
năm Thiệu Bảo thứ bảy (1285), quân Ô Mã Nhi kéo đến Đông Bộ Đầu (tức là bờ sông
Nhị Hà). Nước mình dẫu cơ hồ bị giãy bằng như bãi đất, nhưng trong nước còn có
tướng tài như Trần Quốc Tuấn, sứ thần như Đỗ Khắc Chung.., thì non sông cũng
còn hy vọng vững như kim âu được. Khốn nạn thay bọn Tĩnh quốc đại vương là Quốc
Khang, Chương hiến hầu là Trần Kiện và tất cả liêu thuộc là lũ Lê Tắc đã vội dẫn
gia quyến đi hàng quân địch! Rồi Toa Đô cho đưa cả lũ sang Yên Kinh (Tàu). Kiện
bị Nguyễn Địa Lô, người nhà Quốc Tuấn, bắn chết ở dọc đường. Còn thừa đều thoát
khỏi và sống sót ở bên Tàu. Sau, Lê Tắc có viết quyển An Nam Chí Lược kể hết địa
lý, phong tục và truyện sử nước Nam lưu hành ở nước người” (Trần
Hàm Tấn (1941). “Người mình sang ở Tàu số 2”. Tri Tân Tạp chí, số 4, tr. 6). Hơn nữa, trong bộ An Nam Chí Lược,
Lê Tắc đã quên mất mình là người Việt, ông đứng trên lập trường và quan điểm của
nhà Nguyên mà soạn ra bộ tư sử này.
Tuy vậy, An Nam Chí Lược có lẽ là bộ sử xưa nhất do một cá
nhân người Việt từng soạn ra mà hiện còn hoàn hảo về mặt văn bản, và chúng ta cũng
không thể phủ nhận rằng trong tác phẩm này có nhiều sử liệu đáng quý có liên
quan đến cổ sử và trung sử Việt Nam, hay nói cách khác, cuốn sách này là một sử
liệu, là một đối tượng cho việc nghiên cứu sử học thuần túy. Như PGS.TS Chương
Thâu đã nhận định rất xác đáng rằng: “Ai đọc cũng biết tác giả là một kẻ đầu
hàng, vì chính người viết (tức Lê Tắc) đã tự nhận, nên họ sẽ không băn khoăn gì
về lập trường quan điểm, mà chỉ cần có những thông tin về cái đất nước An Nam
này trước thế kỷ XV mà thôi. Có những thông tin bị xuyên tạc, nhưng có thể có
nhiều thông tin khách quan dù người viết có tư tưởng phản động hay lạc hậu đến
đâu cũng không bị xuyên tạc được. Sự tồn tại của An Nam Chí Lược có lẽ là ở đó”
(Chương Thâu (2002). “Sách “An Nam Chí Lược” và tác giả của nó”. Tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử, số 322 (3/2002), tr. 54).
Trên tinh thần đó, tôi sẽ cố gắng chỉ ra (cũng như góp
thêm vài lời bàn khiêm tốn của kẻ ít học này) những chi tiết mà tôi cho rằng đó
là điểm dị biệt của An Nam Chí Lược so với những điều mà chính sử nước ta đã từng
ghi chép. Quyển An Nam Chí Lược tôi sẽ sử dụng là bản dịch của Viện Đại Học Huế
năm 1961, được chuyển sang ấn bản điện tử bởi nhóm Lê Bắc năm 2001. Những chính
sử tôi sử dụng để đối chiếu là Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (bản dịch của Viện Khoa
Học Xã Hội Việt Nam, 1993), Đại Việt Sử Lược (bản dịch của Nguyễn Gia Tường,
1993), Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (bản dịch của Viện Sử Học, 1998)...
Dĩ nhiên, vì năng lực và điều kiện còn hạn chế nên bài viết này sẽ không tránh
khỏi những sai lầm, những thiếu sót. Vậy, kính mong bạn đọc gần xa, hãy nhiệt
thành bổ sung, cùng chung tay để bài viết này sớm hoàn thiện hơn, xin ghi lời cảm
ơn!
Chương
I: Nhà Ngô
- Sự
xuất hiện của nhân vật Ngô Xương Tuấn!
An
Nam Chí Lược (Quyển Đệ Thập Nhất, Những kẻ tiềm thiết thời Ngũ Đại, mục Ngô Quyền,
tr. 97) chép:
“[Ngô
Quyền] Người Châu Ái, nha tướng của Đình Nghệ, giết Công Tiện, tự lập làm vua.
Con là Xương Ngập, em là Xương Tuấn nối ngôi. Ngụy Hán năm Càn Hoà thứ 12,
(954), Xương Tuấn xưng thần với Lưu Thành, khiển sứ
vào cống, lãnh tiết việt. [Lưu] Thành khiển Cấp
Sự Trung Lý Dự đem sinh tiết qua phong. Dự đi đến Bạch Châu, Xương Tuấn khiển
người đón lại bảo rằng: “Giặc biển làm loạn, đường sá chẳng thông”. Dự bèn
không đi. Xương Tuấn mất, em là Xương Văn kế lập. Văn chết, tham mưu của Văn là
Ngô Xử Bình, Thứ Sử Phong Châu Kiều Tri Tả, Thứ Sử Ninh Châu Dương Huy và nha
tướng Đỗ Cảnh Thạc, dùng binh tranh lập, rồi đều bị Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên, mà
chiếm cứ đất nước”.
Tạm
bỏ qua việc Lê Tắc không chép về trận Bạch Đằng năm 938 tại mục này (vì đã chép
trong Quyển Đệ Tứ, mục Tiền Triều Chính Khảo) thì An Nam Chí Lược có nhắc đến một
nhân vật mà chính sử nước ta đều không chép, đó là Ngô Xương Tuấn! Tôi ban đầu
cho rằng Ngô Xương Tuấn chính là Dương Tam Kha (nhân vật này thì An Nam Chí Lược
cũng không chép), nhưng xét cho cẩn thận, thì làm sao Lê Tắc có thể nhầm lẫn,
chép Dương Tam Kha thành Ngô Xương Tuấn, trong khi hai tên này chẳng có điểm nào
giống nhau cả! Hơn nữa, Dương Tam Kha trong chính sử nước ta làm vua từ 945 - 950.
Đành này, Ngô Xương Tuấn đến năm 954 phải còn tại vị thì mới “xưng thần với Lưu
Thành, khiển sứ vào cống, lãnh tiết việt” được. Cho nên, có thể kết luận bước đầu
rằng, Ngô Xương Tuấn có rất ít khả năng là Dương Tam Kha. Vậy Ngô Xương Tuấn là
ai?
Khảo
cứu rộng hơn, tôi phát hiện ra Lê Tắc ở đoạn này có thể đã dựa theo Tân Ngũ Đại
Sử của Âu Dương Tu, hoàn thành năm 1053. Cụ thể, Tân Ngũ Đại Sử (Quyển 65, Nam
Hán thế gia) chép: “Năm thứ mười hai (954) [...] Ngô Xương Tuấn ở Giao Châu sai
sứ sang xưng thần, xin tiết việt. Xương Tuấn là con của [Ngô] Quyền vậy. Quyền
từ đời [Lưu] Nghiễm (tức Nam Hán Cao Tổ) đã chiếm cứ Giao Châu, Nghiễm sai Hồng
Tháo đến đánh, Hồng Tháo chiến tử, bèn bỏ không đánh nữa. Quyền chết, con là
Xương Ngập lên ngôi. Xương Ngập chết, em là Xương Tuấn lập, mới bắt đầu xưng thần
với [Lưu] Thạnh (tức Nam Hán Trung Tông). Thạnh sai Cấp sự trung Lý Dư đem cờ
tinh, cờ tiết đến mời. Dư tới Bạch Châu, Tuấn sai người ngăn Dư lại, nói: “Cướp
biển đang làm loạn, đường xá không giao thông được”. Dư bèn không đi được”. Vậy
nhân vật Ngô Xương Tuấn này là con của Ngô Quyền, em của Ngô Xương Ngập (“con
là Xương Ngập, em là Xương Tuấn nối ngôi”), anh của Ngô Xương Văn (“Xương Tuấn
mất, em là Xương Văn kế lập” - chi tiết này chỉ có An Nam Chí Lược đề cập, Tân
Ngũ Đại Sử đúng là có nhắc đến Xương Văn (“Năm thứ tám (965), Ngô Xương Văn ở
Giao Châu chết”), nhưng không chép rõ Xương Văn có quan hệ gì với Xương Tuấn,
chi tiết này sẽ rất đắt giá về sau). Tôi thử kiểm tra số người con của Ngô Quyền
trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ngoại kỷ, Quyển V, mục Dương Tam Kha, tr.
106-107), có đoạn: “Con trưởng của Ngô Vương (tức Ngô Quyền) là Xương Ngập sợ,
chạy về Nam Sách Giang, trú ngụ ở nhà Phạm Lệnh Công ở Trà Hương. [Dương] Tam
Kha lấy con thứ hai của Ngô Vương là Xương Văn làm con mình. Các con thứ của
Ngô Vương là Nam Hưng, Càn Hưng còn bé, đều theo Dương quốc mẫu”. Vậy chẳng lẽ
Ngô Xương Tuấn chính là Nam Hưng, Càn Hưng - hai người con thứ của Ngô Quyền?
Khó xảy ra, trước hết là vì cả hai nhân vật này đều không được ghi nhận có “nối
ngôi” (tức làm vua), mà theo Sử cũ thì họ “đều theo Dương quốc mẫu”, hơn nữa, họ
chỉ là con thứ của Ngô Quyền, tức không thể là anh của Ngô Xương Văn (vì Xương
Văn là con thứ hai của Ngô Vương, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (sđd) chép: “[Dương] Tam Kha lấy con thứ hai của Ngô
Vương là Xương Văn làm con mình”). Vậy nếu Ngô Xương Tuấn không phải là Nam
Hưng, Càn Hưng, vậy nhân vật này là một người con khác của Ngô Quyền mà chính sử
nước ta không hề ghi nhận, một người con đã từng làm vua (ngoài Hậu Ngô Vương),
hơn nữa còn là em Xương Ngập, anh Xương Văn? Chưa có tài liệu nào cho biết điều
đó cả, dù chỉ là lưu truyền.
Tôi
xin đưa ra một giả thuyết: Ngô Xương Tuấn chính là Ngô Xương Ngập và cả Ngô
Xương Văn! Điều này xuất phát từ hai chữ “nối ngôi” và “kế lập” mà Lê Tắc đã
dùng. Cứ theo tôi hiểu, thì nối ngôi là có sự truyền nối (như trường hợp vua
cha mất thì Thái Tử sẽ lên thay), còn kế lập là được suy tôn lên làm vua (như trường
hợp vua cha mất bất đắc kỳ tử, trong khi chưa kịp định được người nối nghiệp). Ở
đây, chúng ta có Ngô Xương Tuấn được “nối ngôi” (có thể từ Ngô Quyền, hoặc Ngô
Xương Ngập như Tân Ngũ Đại Sử chép), còn Ngô Xương Văn thì được “kế lập” từ Ngô
Xương Tuấn. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ngoại kỷ, Quyển V, mục Hậu Ngô Vương, tr.
108) chép:
“Tân
Hợi, năm thứ 1 [951], (Chu Thái Tổ Quách Uy, Quảng Thuận năm thứ 1). Vua (tức
Ngô Xương Văn) đã truất bỏ [Dương] Tam Kha, lên ngôi vua, xưng là Nam Tấn
Vương, sai sứ đi đón anh là [Ngô] Xương Ngập về Kinh sư, cùng trông coi việc nước.
Xương Ngập xưng là Thiên Sách Vương”.
Sử thần
Ngô Sĩ Liên đã nhận xét: “Nam Tấn Vương đón Xương Ngập về để cùng trông coi
chính sự, có thể gọi là người biết kính anh, muốn cho cùng hưởng phú quý. Xương
Ngập nên lấy sự mình không có công lao mà nhường ngôi cho em, để cùng hưởng lập, thì đức ấy há chẳng rạng rỡ lớn lao ư? Lại
câu nệ về phận đích trưởng, cũng xưng vương,
trông coi chính sự, lại chuyên quyền làm oai làm phúc, đến nỗi Nam Tấn Vương
không được dự chính sự nữa, thật là mất đạo nghĩa anh em, chí thú rất là ti tiện”.
[...]
Giáp
Dần, năm thứ 4 [954], (Chu Thế Tông Sài Vinh, Hiển Đức năm thứ 1) Thiên Sách
Vương mất. Vua [Nam Tấn Vương] lại giữ ngôi. Sai sứ sang thỉnh mệnh vua Nam Hán
là Lưu Xưởng. Xưởng cho vua làm Tỉnh Hải quân tiết độ sứ kiêm Đô hộ”.
Tức
theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư thì thời Hậu Ngô Vương có hai vị vua cùng cai trị,
đó là Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập và Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn. Nhưng
trên thực tế, thì quyền lực chỉ thuộc về tay Ngô Xương Ngập, vì ông “chuyên quyền
làm oai làm phúc, đến nỗi Nam Tấn Vương không được dự chính sự nữa”. Và đến năm
954, Ngô Xương Ngập mất (không rõ lý do), Ngô Xương Ngập “lại giữ ngôi”. Lúc
này Ngô Xương Ngập mới “sai sứ sang thỉnh mệnh vua Nam Hán là Lưu Xưởng” (đoạn
này thì Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép lầm, vua Nam Hán đương thời phải là Lưu Thạnh
(hoặc Lưu Thành) mới đúng). Có nghĩa là, việc An Nam Chí Lược (và Tân Ngũ Đại Sử)
chép lầm Ngô Xương Văn thành Ngô Xương Tuấn là điều hoàn toàn có thể xảy ra, vì
hai nhân vật này đều được ghi nhận “khiển sứ vào cống” nhà Nam Hán vào năm 954,
hơn nữa, việc Lê Tắc chép “Xương Tuấn mất, em là Xương Văn kế lập” (chi tiết
này như đã lưu ý bên trên, chỉ thấy An Nam Chí Lược chép), có thể là một sự nhầm
lẫn tai hại, Ngô Xương Tuấn trong câu này chính là Ngô Xương Ngập, vì trên thực
tế, chính Xương Ngập mới làm vua (coi chính sự) trong thời chính sử nước ta gọi
là Hậu Ngô Vương, và khi ông mất thì Xương Văn “lại (tôi xin nhấn mạnh) giữ
ngôi”. Nên đoạn “Xương Tuấn mất, em là Xương Văn kế lập” trong An Nam Chí Lược,
nói cho đúng phải là “Xương Ngập mất, em là Xương Văn (lại) kế lập”, và đoạn “Ngụy
Hán năm Càn Hoà thứ 12, (954), Xương Tuấn xưng thần với Lưu Thành, khiển sứ vào
cống, lãnh tiết việt” như Lê Tắc chép, nếu đúng phải là “Ngụy Hán năm Càn Hoà
thứ 12, (954), Xương Văn xưng thần với Lưu Thành, khiển sứ vào cống, lãnh tiết
việt”. Điều này “vô tình” phù hợp với ghi chép của Việt kiệu thư (Quyển IV, tờ
19a-20a), vì sách này từng chép: “Khi Ngô Quyền mất, con là Xương Ngập (951-954)
lên ngôi. Xương Ngập mất, em là Xương Văn (951-965) xin mệnh nhà Nam Hán. Vua
nhà Hán là Thạnh phong Xương Văn làm Tĩnh hải quân tiết độ sứ, kiêm An Nam đô hộ”!
Tất
nhiên, đây chỉ là quan điểm chủ quan của tôi, nhân vật Ngô Xương Tuấn này (nếu
có thật), có thể là một nhân vật hoàn toàn mới mà chính sử nước ta không hề ghi
nhận (giả định không phải là Dương Tam Kha, Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn). Hoặc
suy nghĩ đơn giản hơn, đó chỉ là một nhân vật không có thật, do An Nam Chí Lược
tạo ra (dù trường hợp này có rất ít khả năng để thành hiện thực, vì nhân vật
Ngô Xương Tuấn này đã từng xuất hiện trong Tân Ngũ Đại Sử, hoàn thành năm 1053)
Chương
II: Nhà Đinh
-
Nhà Đinh có ba đời vua, Đinh Bộ Lĩnh và Đinh Liễn không mất cùng một thời điểm!
An
Nam Chí Lược (Quyển Đệ Thập Nhất, Gia thế họ Đinh, mục Đinh Bộ Lĩnh và mục Đinh
Liễn, tr. 97) chép:
“[Đinh
Bộ Lĩnh] Người động Hoa Lư, Giao Châu. Cha là Công Trứ, làm nha tướng của Đình Nghệ. Cuối
thời Ngũ Đại, Đình Nghệ đi trấn Giao Châu, lấy Công Trứ quyền Thứ Sử
Hoan Châu. Trước đây, Ngô Quyền giết Kiều Công Tiện, cha con Bộ Lĩnh về với Ngô
Quyền, Quyền nhân khiển Công Trứ về nhiệm chức
cũ. Khi Công Trứ mất, Bộ Lĩnh kế tập chức cha.
Kịp đến lúc Ngô Xương Văn mất, bọn bộ hạ nổi loạn, Bộ Lĩnh cùng con là Liễn
đánh dẹp yên hết, lĩnh việc cai trị Giao Chỉ,
xưng hiệu Vạn Thắng Vương, riêng phong chức cho Liễn làm Tiết Độ Sứ, được mười
năm thì Bộ Lĩnh mất”.
“[Đinh
Liễn] Kế lập được bảy năm, năm Tân Vị Khai Bửu thứ 4 (971), Thái Tổ nhà Tống khiển
đại tướng Phan Mỹ qua đánh Lĩnh Nam. Liễn sợ, dâng biểu văn, khiển sứ vào cống,
xin nội phụ, Thái Tổ xuống chiếu phong Liễn làm Tiết Độ Sứ An Nam đô hộ. Tháng
5 năm thứ 8, (975), Liễn tiến cống vàng lụa, sừng tê, ngà voi, trà thơm. Ngày mồng
7 tháng 8, Thái Tổ xuống sắc chế, phong cha Liễn là Bộ Lĩnh làm Giao Chỉ Quận
Vương, thực ấp 1.000 hộ. Tháng 12, khiển Cao Bảo Chư làm Quan Cáo Sứ. Năm Thái
Bình Hưng Quốc thứ 2 (977), Liễn sai sứ qua cống mừng vua Thái Tông lên ngôi.
Năm [Thái Bình Hưng Quốc] thứ 5 (980), Liễn mất, em là Truyền lên ngôi”.
Về
việc nhà Đinh có ba đời vua, hãy chú ý đến những chi tiết sau: “được mười năm
thì Bộ Lĩnh mất”, “[Đinh Liễn] kế lập được bảy năm”, “Năm [Thái Bình Hưng Quốc]
thứ 5 (980), Liễn mất, em là Truyền lên ngôi”. Tức ở đây có hai trường hợp, một
là Đinh Bộ Lĩnh nhượng vị cho Đinh Liễn sau ba năm làm vua (chớ không phải vua
cha mất rồi thì Đinh Liễn mới lên thay, điều này phù hợp với chính ghi chép của
Tống Sử (Quyển 488 - Ngoại quốc 4, mục Giao Chỉ): “Được ba năm, thì (Bộ Lĩnh)
nhượng vị cho Liễn [...] Năm Khai Bảo thứ tám (975), (Bộ Lĩnh) sai sứ đến cống
tê, voi, hương liệu”. Để dễ hình dung thì trường hợp này gần như chế độ Thái
thượng hoàng nhà Trần vậy). Hai là Đinh Bộ Lĩnh làm vua được mười năm thì mất,
Đinh Liễn làm vua kế vị được bảy năm thì mất. Trường hợp hai có lẽ phù hợp (với
ghi chép của Lê Tắc) hơn cả, vì chính ở mục Đinh Truyền, Lê Tắc chép: “Thái
Bình Hưng Quốc thứ 5 (980) [...] Đại hiệu Lê Hoàn chuyên quyền, hiếp dời Truyền
ở một nhà riêng, bắt giam cả họ và thay thế quản lãnh binh quyền. Thái Tông giận,
khởi binh tiến đánh”, “Họ Đinh nối nghiệp ba đời, cộng được 17 năm”. Thử nhẩm
tính, Đinh Bộ Lĩnh làm vua 10 năm, Đinh Liễn làm vua 7 năm, Đinh Toàn (Đinh Phế
Đế) thì đã mất quyền lực (trên thực tế) cùng năm Đinh Liễn mất, tức Thái Bình
Hưng Quốc thứ 5 (980), vậy “cộng được 17 năm” là tính toán hợp lý. Dù sao, tất
cả chỉ là giả thuyết, việc hiểu lầm rằng nhà Đinh có ba đời vua cũng đã xuất hiện
trong tờ chiếu vua Tống ban cho Lê Hoàn năm 983 (1). Đây có thể chỉ là mẫu số
chung trong nhận thức các triều đại phong kiến phương Bắc khi chép về lịch sử
nhà Đinh ở nước ta (và Lê Tắc cũng không nằm ngoài mẫu số này)
Về
việc Đinh Bộ Lĩnh và Đinh Liễn không mất cùng một thời điểm, điều này xuất phát
từ trường hợp hai mà tôi đã nêu ra bên trên. Cứ theo đó thì Đinh Bộ Lĩnh mất
trước Đinh Liễn tận 7 năm! Điều này thực sự đã mâu thuẫn rất gay gắt với chính
sử nước ta. Cụ thể:
Đại
Việt Sử Lược (Quyển I, nhà Đinh, mục Đinh Tiên Vương, tr. 28) chép:
“Năm
Kỷ Mão (tức năm 979) là năm thứ 10 niên hiệu Thái Bình [...] Mùa đông, tháng
11, ban đêm vua (tức Đinh Tiên Vương) ngự tiệc thì bị Phúc Hầu Hoằng là Đỗ
Thích giết, luôn cả bọn Việt Vương Đinh Liễn nữa”.
Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư (Bản kỷ, Quyển I (a), mục Tiên Hoàng Đế, tr. 124-125) chép:
“Kỷ
Mão, [Thái Bình] năm thứ 10 [979], (Tống Thái Bình Hưng Quốc năm thứ 4) [...]
Mùa đông, tháng mười, Chi hậu nội nhân Đỗ Thích giết vua (tức Đinh Tiên Hoàng Đế)
ở sân cung. Bọn Đinh quốc công Nguyễn Bặc bắt được đem giết. Trước đó Đỗ Thích
làm chức lại ở Đồng Quan, đêm nằm trên cầu, bỗng thấy sao sa rơi vào miệng,
Thích cho là điềm tốt, bèn nảy ra ý định giết vua. Đến đây, nhân lúc vua ăn yến
ban đêm, say rượu nằm trong sân, Thích bèn giết chết, lại giết luôn cả Nam Việt
Vương Liễn”.
Khâm
Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (Chính biên, Quyển I, tr. 84-85) chép:
“Kỷ
Mão, năm thứ 10 (979). (Tống, năm Thái Bình hưng quốc thứ 4) [...] Tháng 10 mùa
đông. Chi hậu nội nhân Đỗ Thích giết nhà vua và Nam Việt vương Liễn”.
Tóm
lại, cha con Bộ Lĩnh (theo chính sử nước ta) mất cùng một thời điểm bởi tên Chi
hậu nội nhân (hoặc Phúc Hầu Hoằng) Đỗ Thích vào năm Kỷ Mão (979). Tức “Đỗ Thích
thí Đinh Đinh”, chớ không phải như trường hợp hai mà tôi cho rằng Lê Tắc thực sự
đã nghĩ đến (“cộng được 17 năm”). Còn nếu chúng ta tin rằng Lê Tắc chép theo
trường hợp một (hoặc trường hợp khác mà tôi chưa đủ năng lực để giả định đến),
thì nó lại phù hợp với ghi chép của chính sử nước ta, vì Đinh Bộ Lĩnh chỉ nhượng
vị cho Đinh Liễn chớ vẫn còn sống, nên việc cha con Bộ Lĩnh mất cùng một thời
điểm bởi Đỗ Thích là điều hoàn toàn có thể xảy ra ngay trong An Nam Chí Lược!
-
Lê Hoàn là thủ phạm giết Đinh Toàn và nhà Đinh kéo dài tận 17 năm (An Nam Chí
Lược gọi là Đinh Truyền, Đại Việt Sử Lược gọi là Đinh Tuệ)
An
Nam Chí Lược (Quyển Đệ Thập Nhất, Gia thế họ Đinh, mục Đinh Truyền, tr. 97)
chép:
“Truyền
còn nhỏ, xưng Tiết Độ Hành Quân Tư Mã, quyền lãnh việc quân phủ. Tháng 4 năm
Canh Thìn, Thái Bình Hưng Quốc thứ 5 (980), [vua Tống] khiển Lư Tập đi sứ Giao
Chỉ. Đại hiệu Lê Hoàn chuyên quyền, hiếp dời Truyền ở một nhà riêng, bắt giam cả
họ và thay thế quản lãnh binh quyền. Thái Tông giận, khởi binh tiến đánh. Hoàn
giả làm biểu văn của Truyền dâng lên. Qua tháng 11, [Lê Hoàn] khiển sứ tiến cống
những đồ báu [cho nhà Tống], như khí mãnh bằng vàng, bằng bạc, sừng tê, ngà voi
và dâng một tờ trạng văn, nói rằng tất cả tướng hiệu, quân lính, kỳ lão trong
nước, đều xin cho Truyền làm chức Tiết Độ Sứ, nối ngôi của cha, anh. Lúc ấy,
nhà Tống đã dấy binh, biểu văn tâu vào không được trả lời. Mùa đông tháng 11,
quan binh đánh bại quân Giao Chỉ ở Bạch Đằng. Năm sau, binh nhà Tống thất lợi
rút về. Năm thứ 7 (982), Hoàn lại trá xưng Truyền khiển sứ tiến cống, vì sợ
quân Tống tiến đánh vậy. Truyền bị Hoàn sát hại. Họ Đinh nối nghiệp ba đời, cộng
được 17 năm”.
Đại
Việt Sử Lược (Quyển I, nhà Đinh, mục Vệ Vương, tr. 28, Quyển I, nhà Lê, mục Lê
Đại Hành, tr. 31) chép:
“Tên húy là Tuệ, là con thứ của Tiên Vương vậy. Tiên
Vương bị Đỗ Thích giết, Nguyễn Bặc, Lê Hoàn cùng phụng lập Vệ Vương lên ngôi.
Vua Vệ Vương năm thứ 2 (tức năm Canh Thìn 980). Mùa thu, tháng 7, quân Tống
sang đánh nước ta. Quần thần thấy Đinh Tuệ còn nhỏ, nhu nhược, [nên] mới cùng
tôn Lê Hoàn làm vua và giáng Đinh Tuệ xuống làm Vệ Vương. Trên từ Đinh Tiên
Hoàng xuống đến Vệ Vương cộng hai đời. Bắt đầu từ năm Mậu Thìn (năm 968) và chấm
dứt vào năm Canh Thìn (năm 980) gồm có 13 năm thì mất.
[...]
Năm
Tân Sửu (tức năm 1001) là năm thứ 7 niên hiệu Ứng Thiên. Vua (tức Lê Đại Hành)
đánh giặc ở Cử Long. Quân giặc thấy vua, trương cung nhắm đích sắp muốn bắn,
tên bỗng rơi. Vua lại tiếp tục bắn, quân giặc sợ mà rút lui. Lúc bấy giờ vua ngự
trên lâu thuyền tiến vào sông Cùng Giang để đuổi theo. Quân giặc bày trận ở hai
bên bờ sông cùng với nhà vua đánh nhau. Quân lính nhà vua bị đánh ép trên sông.
Vệ Vương Đinh Tuệ trúng tên chết. Nhà vua kêu “Trời” ba tiếng, giặc tự nhiên
thua”.
Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư (Bản kỷ, Quyển I (a), mục Phế Đế, tr. 126-129, Bản kỷ, Quyển
I (b), mục Đại Hành Hoàng Đế, tr. 148) chép:
“Tên
húy là Toàn, con thứ của Tiên Hoàng, ở ngôi 8 tháng. Họ Lê cướp ngôi, giáng phong là Vệ Vương, thọ
18 tuổi [974-991]. Vua còn thơ ấu phải nối nghiệp lớn gian nan, cường thần nhiếp chính, người trong nước lìa lòng, nhà Đinh bèn mất.
[...]
Trở
nên là triều Đinh, hai vua, bắt đầu từ năm Mậu Thìn, chấm dứt vào năm Canh Thìn
[968-980] tất cả 13 năm.
[...]
Tân
Sửu, [Ứng Thiên] năm thứ 8 [1001], (Tống Hàm Bình năm thứ 4). Vua (tức Lê Đại
Hành) thân đi đánh giặc Cử Long. Quân giặc thấy vua, giương cung nhắm bắn thì
tên rơi, lại giương cung thì dây đứt, tự lấy làm sợ mà rút lui. Vua bèn đi thuyền
vào Cùng Giang để đuổi. Giặc bày trận hai bên bờ chống lại, quan quân bị hãm ở
[giữa] sông, vua cũ [nhà Đinh] là Vệ Vương Toàn trúng tên chết tại trận. Vua
kêu trời ba tiếng rồi thúc quân đánh, giặc tan vỡ”.
Khâm
Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (Chính biên, Quyển I, tr. 87, Chính biên, Quyển
I, tr. 97) chép:
“Canh
Thìn, năm thứ 11 (980). Tháng 7, mùa thu. Dương thị sai Lê Hoàn đem quân ra chống
quân Tống. Lê Hoàn liền tự xưng là Hoàng đế, truất bỏ Đế Toàn lại làm Vệ vương.
Nhà Đinh (968-980) mất.
[...]
Đây
trở lên, nhà Đinh từ Tiên Hoàng, Mậu Thìn, năm thứ một (đến năm thứ ba mới đặt
niên hiệu là Thái Bình) đến Đế Toàn, Canh Thìn, vẫn gọi là niên hiệu Thái Bình
năm thứ 11, cộng hai đời vua, 13 năm (968-980).
[...]
Tân
Sửu, năm thứ 8 (1001). (Tống, năm Hàm Bình thứ 4). Vua nhà Đinh trước là Toàn mất
ở Cử Long. Nhà vua (tức Lê Đại Hành) đi đánh Cử Long: Vệ vương Toàn đi theo. Bấy
giờ quân giặc thấy nhà vua, chúng giương cung, chĩa tên, toan bắn, chiếc tên
rơi xuống, chúng lại giương cung, dây cung đứt. Chúng sợ, rút lui. Nhà vua đi
thuyền ven sông đuổi theo. Quân giặc ở hai bên bờ đánh khép lại. Quan quân bị
hãm ở sông. Vệ vương Toàn trúng phải mũi tên bay, mất tại trận. Nhà vua kêu trời
ba tiếng, rồi thân ra đốc chiến: quân giặc thua”.
Tóm
lại, từ những sử liệu tôi đã dẫn bên trên, chúng ta có thể rút ra được 3 chi tiết
đại đồng tiểu dị sau đây: Nhà Đinh kéo dài 17
năm, Lê Hoàn hiếp dời [Đinh] Truyền ở một nhà
riêng, bắt giam cả họ và thay thế quản lãnh
binh quyền, Truyền bị Hoàn sát hại. Đặc biệt, chi tiết cuối cùng là rất khác so
với những gì chính sử nước ta ghi nhận. Trong lời phê của Khâm Định Việt Sử
Thông Giám Cương Mục (sđd), vua Tự Đức cũng ám
chỉ rằng có thể chính Lê Hoàn đã hại chết
(gián tiếp) Vệ Vương, cụ thể: “Lê Hoàn lợi dụng cơ hội, đã cướp lấy nước người
ta, lại không khéo đối đãi chúa cũ, đẩy vào chỗ
chết, thế nào mà Toàn chẳng đến tử vong? Còn việc cất tiếng kêu trời, gieo mình
xuống đất, chỉ là một ngón giả trá. Thật khó che đậy được công luận nghìn thu”.
Liệu Lê Tắc có cùng quan điểm với vua Tự Đức khi chép đến những dòng này không?
Nếu không, thì tại sao ông lại bảo “Truyền bị Hoàn sát hại”?
Chương
III: Nhà Tiền Lê
-
Lê Long Đĩnh là con út của Lê Hoàn!
An
Nam Chí Lược (Quyển Đệ Thập Nhất, Gia thế họ Lê, mục Long Đĩnh, tr. 99) chép:
“[Long
Đĩnh] Con út của Lê Hoàn (tức Lê Đại Hành)”.
Điều
này là mâu thuẫn với chính sử nước ta, cụ thể, Đại Việt Sử Lược (Quyển I, nhà
Lê, mục Lê Ngọa Triều, tr. 32) chép:
“Tên húy là Long Đĩnh, là con thứ năm của vua Đại
Hành và là em trai cùng mẹ của vua Trung Tông”.
Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư (Bản kỷ, Quyển I (b), mục Ngọa Triều Hoàng Đế, tr. 151) cũng
chép:
“Tên húy là Long Đĩnh, lại có tên là Chí Trung, con
thứ năm của Đại Hành”.
Vậy
Lê Long Đĩnh là con út, hay là con thứ năm của Lê Hoàn? Chi tiết này, tôi cho rằng
Lê Tắc đã chép lầm, vì ở những đoạn sau trong An Nam Chí Lược (sđd), ông lại chép: “Tháng 7 năm thứ 4 (1007), quyền
An Nam Tĩnh Hải Quân Tiết Độ Quan Sát Xử Trí lưu hậu Lê Long Đĩnh khiển em (tôi
xin nhấn mạnh) là Lê Minh Vĩnh cùng Chưởng Thư Ký Hoàng Thành Nhã vào cống”.
Để
cho chắn chắn hơn, tôi đã thử khảo sát nhiều
nguồn sử liệu, và nhận thấy rằng Lê Hoàn có đến 11 người con trai (không tính con
nuôi), và Lê Long Đĩnh đúng thực là “con thứ
năm của vua Đại Hành”, danh sách 11 người con trai đó lần lượt là:
1.
Lê Thau, 2. Lê Ngân Tích, 3. Lê Long Việt, 4. Lê Long Đinh, 5. Lê Long Đĩnh, 6.
Lê Long Cân, 7. Lê Long Tung, 8. Lê Long Tương, 9. Lê Long Kính, 10. Lê Long Mang,
11. Lê Long Đề.
-
Lê Long Đĩnh tự xưng là gì?
An
Nam Chí Lược (Quyển Đệ Thập Nhất, Gia thế họ Lê, mục Long Đĩnh, tr. 100) chép:
“Tháng
7, Thiệu Diệp tâu có công điệp của Long Đĩnh [gửi] đến, tự xưng Tĩnh Hải Quân
Tiết Độ Quan Sát, Xử Trí Đẳng Sứ, Kiểm Hiệu Thái Uý Khai Minh Vương, xin đến
tháng 8, sẽ sai em vào cống. Thần (tức Thiệu Diệp) nghĩ Long Đĩnh chưa chịu
Chân mệnh của nhà vua, dám tự xưng hô như thế, nên không dám phúc đáp. Vua cho
là cõi xa vựa lạ, không biết thể thống triều
đình, bèn xuống chiếu giao Thiệu Diệp dụ khiển [Long Đĩnh] tước bỏ ngụy quan, mới cho vào cống”.
Khâm
Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (Chính biên, Quyển I, tr. 100) chép:
“[Vua
Tống] sai Thiệu Việp đem thư sang hiểu dụ. Nhà vua (tức Lê Ngọa Triều) sợ, xin sai em sang cống”.
Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư (Bản kỷ, Quyển I (b), mục Ngọa Triều Hoàng Đế, tr. 153)
chép:
“[Vua
Tống] sai [Thiệu] Việp đưa thư sang bày tỏ uy đức
của triều đình, bảo không nên giết hại lẫn nhau, nếu anh em để lâu không định
[được] ngôi thứ, khi đó quân thiên triều sang hỏi tội, thì họ Lê không một móng
nào sống sót. Vua (tức Lê Ngọa Triều) sợ, xin sai
em sang cống”.
Qua
những sử liệu đã được tôi trích dẫn bên trên, chúng ta có thể thấy một điều rằng:
chỉ An Nam Chí Lược là có ghi chép về việc Lê Long Đĩnh tự xưng “Tĩnh Hải Quân
Tiết Độ Quan Sát, Xử Trí Đẳng Sứ, Kiểm Hiệu Thái Uý Khai Minh Vương”, trước khi
“sai em sang cống”, và bị vua Tống khiển trách, “xuống chiếu giao Thiệu Diệp
(hay Thiệp Việp) dụ khiển [Long Đĩnh] tước bỏ ngụy quan, mới cho vào cống”. Chi
tiết này thực sự giá trị, vì qua đó, đã cho chúng ta thấy được thái độ của Lê
Ngọa Triều đối với triều đình nhà Tống, cũng
như thái độ của Tống Chân Tông đối với Lê Ngọa Triều nói riêng, và nhà Tiền Lê
nói chung: “tư tưởng của vua Tống Chân Tông [là] không muốn gây sự với nước Nam
mà muốn thu xếp sao cho yên ổn” (Sđd, tr. 59)
Chương
IV: Nhà Lý
-
Lý Công Uẩn có soán ngôi của ấu chúa không? Và
sự thật quá trình đó diễn ra như thế nào?
An
Nam Chí Lược (Quyển Đệ Thập Nhất, Gia thế họ Lê, mục Long Đĩnh, tr. 100) chép:
“Tháng
3 năm thứ 3 (1010), Chí Trung (tức Lê Ngọa Triều) mất, có con mới mười tuổi, bị
Lý Công Uẩn soán ngôi”.
An
Nam Chí Lược (Quyển Đệ Thập Nhị, Gia thế họ Lý, mục Lý Công Uẩn, tr. 101) chép
cụ thể hơn:
“Năm
Canh Tuất, niên hiệu Đại Trung tường phù thứ 3 (1010), Chí Trung mất, con đương
nhỏ, em là Minh Vĩnh tranh ngôi, Công Uẩn đuổi và giết Minh Vĩnh, tự lĩnh công
việc Giao Châu, xưng An Nam Tĩnh Hải quân quyền lưu hậu”.
An
Nam Chí Lược (Quyển Đệ Thập Nhị, Gia thế họ Lý, mục Chiêu Thánh, tr. 104) thì dẫn
lời Vương Võ Xứng (nhà Tống) trong sách Đông đô sự lược Giao Chỉ, chép:
“Lê
Hoàn cướp họ Đinh, truyền ba đời thì nước mất.
Công Uẩn cướp họ Lê đã mấy đời còn được yên, há chẳng phải may hay sao?”.
An
Nam Chí Lược chép như vậy, trong khi, chính sử nước ta khi chép về quá trình Lý
Công Uẩn từ một Điện tiền Chỉ huy sứ thành Hoàng Đế khai sáng của nhà Lý, lại rất
dài dòng và nhuốm màu tâm linh. Nào là câu chuyện cây gạo bị sét đánh hiện ra lời
sấm, vua Lê Ngọa Triều ăn quả lê chợt thấy hột lý, con chó ở châu Cổ Pháp đẻ
con sắc trắng có đốm lông đen thành hình hai chữ “Thiên tử”, hay việc sư Vạn Hạnh,
cho tới Đào Cam Mộc (đại diện cho thế lực Phật giáo đương thời) ủng hộ bằng cả
lời nói và hành động, tôn Lý Công Uẩn lên làm vua, thậm chí, ngay trong những
hành động của Lý Thái Tổ sau khi lên ngôi cũng rất đáng ngờ (đặc biệt là việc dời
dô). Tạ Chí Đại Trường có thể là một trong những sử gia đầu tiên nhận ra điều
này, trong Bài Sử Khác Cho Việt Nam (Chương I: Một Số Vấn Đề Căn Bản Để Việc
Tìm Hiểu Lịch Sử Việt Nam Mang Tính Hiện Đại, mục Các Dấu Vết Và Những Tác Động
Khúc Xạ Trong/Ngoài, Xưa/Nay, tr. 23), ông nói: “Việc dời đô về Thăng Long mở
ra một thời đại lâu dài, văn minh khiến cho sử quan phải tô vẽ chuyện lấy ngôi
Lê cho dài hơi, kéo theo thật nhiều dấu vết thần kỳ cùng âm mưu về trước lâu
ngày, nhiều nhân vật tham gia, tình tiết khuất khúc… trong lúc thật ra Ngọa Triều
chết chỉ mới cách một ngày là đã có đảo chính [của Lý Công Uẩn] ! Và do đó,
chuyện Dời Đô lại có dáng như một chuyến đi ly khai!”. Tóm lại, vấn đề này còn
rất phức tạp với nhiều lớp sương thời gian đang che phủ xung quanh (chính sử nước
ta không thấy chép về việc “em là Minh Vĩnh tranh ngôi [với con kế tự của Lê Ngọa
Triều], Công Uẩn đuổi và giết Minh Vĩnh, tự lĩnh công việc Giao Châu”), tôi hi
vọng trong tương lai không xa, sẽ có một ai đó đủ khả năng làm tan đi lớp sương
đang phủ kín, qua đó có thể chạm một tay vào sự thật lịch sử còn đang ẩn giấu đằng
sau những đống sử liệu đầy mâu thuẫn này.
- Lần
đi sứ bị mất năm 1010!
Theo
An Nam Chí Lược (Quyển Đệ Thập Nhị, Gia thế họ Lý, mục Lý Công Uẩn, tr. 101),
vào năm 1010, Nhà Tống nghe tin Lý Công Uẩn đưa thư được mang phương vật sang
tiến cống, xin vua Tống xuống chiếu chỉ. Tống Chân Tông nói rằng: “Lê Ngọa Triều
bất nghĩa mà được ngôi, nay Công Uẩn bắt chước [mà] làm bậy, lại càng đáng ghét”.
Tức thì xuống chiếu khiển Hà Lượng yên vỗ dân biên thùy, xem xét cơ sự để tâu
lên. Tháng 10, Vua Tống sắc phong Lý Công Uẩn quyền chức Tĩnh hải quân lưu hậu,
được đặc cách tiến chức Kiểm hiệu Thái phó, An Nam đô hộ, tiết độ quan sát, sử
trí đẳng sứ, Giao Chỉ quận vương, thực ấp 3000 hộ, thiệt phong 1000 hộ, kiêm Ngự
sử đại phu, Thượng trụ quốc, đặc biệt ân tứ cho hiệu là Suy thành Thuận hóa
công thần, lại cho áo cùng đồ bằng vàng và tiền tệ. Tháng 12, Công Uẩn khiển sứ
mừng lễ tế Phần âm hậu thổ, lại dâng biểu xin Kinh Đại Tạng và tám thể ngự bút.
Vua (tức Tống Chân Tông) ban cho Kinh Đại Tạng cùng Thái Tông ngự thư (nghĩa là
chữ của vua Tống Thái Tông viết) một trăm bức, và ban chiếu thư khen ngợi”.
Nhưng
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Bản kỷ, Quyển II (a), kỷ nhà Lý, mục Thái Tổ Hoàng Đế,
tr. 168-170) khi chép về năm 1010 lại có sự khác biệt:
“Canh
Tuất, Thuận Thiên năm thứ 1 [1010], (Tống Đại Trung Tường Phù năm thứ 3) [...]
Sai Viên ngoại lang Lương Nhậm Văn và Lê Tái Nghiêm sang nước Tống để kết hảo
[...] Mùa đông, tháng 12 [...] Nhà Tống phong vua (tức Lý Thái Tổ) làm Giao Chỉ
Quận Vương lĩnh Tĩnh Hải quân tiết độ sứ”.
Khâm
Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (Chính biên, Quyển II, tr. 106-107) cũng
chép:
“Năm
Canh Tuất (1010), Lý Thái Tổ hoàng đế năm Thuận Thiên thứ 1. (Tống, năm Đại
Trung tường phù thứ 3) [...] Sai sứ sang nhà Tống. Sai viên ngoại lang là Lương
[Nhậm] Văn và Lê Tái Nghiêm đem sản vật địa phương sang biếu nhà Tống. Các quan
nhà Tống muốn từ chối, nhưng vua Tống nói: “Họ Lê thay nhà Đinh, họ Lý cũng bắt
chước làm theo. Ta đối với Lê hay Lý, nào có khác gì!”, Bèn nhận sính lễ [...]
Sứ nhà Tống sang (sự kiện này Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục cũng chép
vào tháng 12). Từ Đinh, Lê đến nay, sứ Tống sang sách phong, trước phong chức
Kiểm hiệu Thái uý, rồi đến chức Tiết độ, đô hộ, sau mới phong là Quận vương. Đến
đây, bắt đầu phong ngay là Giao Chỉ quận vương, lĩnh Tĩnh Hải quân tiết độ sứ.
Việc này về sau trở thành lệ thường”.
Ở
đây, có hai trường hợp có thể xảy ra: Một, chính sử nước ta đã chép lầm, có lẽ
là do thiếu sót, hoặc sự kiện “Tháng 12, Công Uẩn khiển sứ mừng lễ tế Phần âm hậu
thổ, lại dâng biểu xin Kinh Đại Tạng và tám thể ngự bút” vì một lý do nào đó,
đã bị các nhà chép sử nước ta cố tình bỏ đi, thay vào đó, họ đưa sự kiện “Tháng
10 [1010], sắc phong Lý Công Uẩn...” lên “Mùa đông, tháng 12 [...] Nhà Tống
phong vua (tức Lý Thái Tổ) làm Giao Chỉ Quận Vương lĩnh Tĩnh Hải quân tiết độ sứ
(đến cả tước phong cũng chép không đúng)” để lắp vào khoảng trống thời gian!
Hai, An Nam Chí Lược đã chép lầm từ sự kiện Lý Thái Tổ xin kinh vào năm 1018, cụ
thể, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Bản kỷ, Quyển II (a), kỷ nhà Lý, mục Thái Tổ
Hoàng Đế, tr. 175) chép: “Mùa hạ, tháng 6, sai Viên ngoại lang là Nguyễn Đạo
Thanh và Phạm Hạc sang nước Tống xin kinh Tam Tạng”. Nhưng thuyết này không đứng
vững, vì chính sử nước ta thời Lý Thái Tổ (đặc biệt là lần đi xin kinh vào năm
1018) không thấy đề cập gì đến sự kiện vua Lý xin “tám thể ngự bút” cả! Hơn nữa,
An Nam Chí Lược (Quyển Đệ Thập Nhị, Gia thế họ Lý, mục Lý Công Uẩn, tr. 102)
cũng có nhắc đến sự kiện xin kinh năm 1018 ở đoạn khác: “Tháng 5 năm thứ 2
(1018), theo lời thỉnh cầu, cho Công Uẩn Kinh Đại Tạng”. Vậy tôi chỉ có thể
nghĩ đến trường hợp Lê Tắc đã chép lầm, tạo ra một sự kiện không có thật (dù Tống
Sử cũng có chép)? Vì Lý Thái Tổ chỉ vừa mới lên ngôi, còn quá nhiều việc phải
giải quyết, thì thời gian đâu để vua Lý cử sứ giả sang nhà Tống tận hai lần
(trong cùng một năm) được? Nói như vậy thì lại cảm tính và vô căn cứ quá, tôi e
rằng không hợp lý. Tóm lại, quan điểm của tôi về sự kiện này, là chính sử nước
ta có thể đã chép lầm, bỏ sót việc “xin Kinh Đại Tạng và tám thể ngự bút” của
Lý Thái Tổ vào tháng 12 năm 1010!
Chương
V: Nhà Trần (là thời đại của chính tác giả Lê Tắc)
- Triều đình nhà Trần trông về cửa khuyết (nhà Nguyên) mà lạy tạ ơn!
An
Nam Chí Lược (Quyển Đệ Nhất, mục Tống Tự, tr. 6) chép:
“Trong
năm Quý Tỵ hiệu Chí Nguyên (1293), vua (tức Nguyên Thế Tổ) lại sai Đại Vương
Ích Cát Liệt Đải và quan Bình Chương là Lưu Nhị Bạt Đô qua đóng đồn tại đất Việt,
để chờ qua năm là năm Giáp Ngọ (1294), trong khoảng mùa thu thì tiến binh.
Nhưng tháng giêng năm ấy vua Thế Tổ băng, qua tháng tư mùa hạ, Thành Tông Hoàng
Đế lên ngôi, hạ chiếu bãi binh, lại khiển quan Thị Lang bộ Lễ là Lý Hản, quan
Lang Trung là Tiêu Thái Đăng đi sứ qua An Nam [để] tha tội cho Thái Tử An Nam
và dẫn sứ thần An Nam là Đào Tử Kỳ về nước để tuyên lời dụ chỉ. Lúc đó, Thế Tử
(tức Trần Thánh Tông, nhưng chi tiết này là sai, chép Trần Thánh Tông là Thái
thượng hoàng mới đúng. Lê Tắc có lẽ vì đứng trên quan điểm chép sử của nhà
Nguyên nên đã không công nhận nước ta vừa có Thái thượng hoàng lại vừa có vua)
đã mất từ mấy năm, nên con vua (Trần Nhân Tông hay Trần Anh Tông?) suất các
quan liêu ra đón, đặt bàn xông trầm, trông về cửa khuyết
(nhà Nguyên) mà lạy tạ ơn. Lại khiển bồi thần qua dâng lời biểu chúc mừng,
xin làm phiên thần vĩnh viễn, chiếu lệ thường triều cống, đến nay vẫn còn”.
Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư (Bản kỷ, Quyển V (c), mục Nhân Tông Hoàng Đế, tr. 410-411,
Bản kỷ, Quyển VI (a), mục Anh Tông Hoàng Đế, tr. 425-526) chép:
“Quý
Tỵ, [Trùng Hưng] năm thứ 9 [1293], (từ tháng 3 trở đi là Anh Tông Hưng Long năm
thứ 1, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 30) [...] Nhà Nguyên sai Binh bộ thượng thư
Lương Tằng dụ vua (tức Trần Anh Tông) vào chầu. Vua lấy cớ có bệnh từ chối, sai
Đào Tử Kỳ sang tặng phương vật. Nhà Nguyên giữ Tử Kỳ ở Giang Lăng, lập An Nam
hành tỉnh, lấy bọn Bình chương Lưu Nhị Bạt Đô cầm quân đóng ở Tĩnh Giang, đợi lệnh
tiến đánh. Tháng giêng năm năm sau, Nguyên Thế Tổ băng. [Nguyên] Thành Tông lên
ngôi, xuống chiếu bãi binh, thả Tử Kỳ về nước.
[...]
Ất
Mùi, [Hưng Long] năm thứ 3 [1295], (Nguyên Thành Tông Mộc Nhĩ Nguyên Trinh năm
thứ 1). Mùa xuân, tháng 2, ngày mồng 1, sứ Nguyên Tiêu Thái Đăng sang. Vua sai
Nội viên ngoại lang Trần Khắc Dụng, Phạm Thảo cùng đi theo, nhận được bộ kinh Đại
Tạng đem về để ở phủ Thiên Trường, in bản phó để lưu hành”.
Khâm
Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (Chính biên, Quyển VIII, tr. 242, Chính biên,
Quyển VIII, tr. 244) chép:
“Quý
Tỵ, năm thứ 9 (1293). (Từ tháng 3 trở về sau, thuộc về Anh Tông năm Hưng Long
thứ I. Nguyên Thế Tổ, năm Chí Nguyên thứ 30) [...] Nhà Nguyên lại sai sứ thần
sang. Trước đây, Đại Phạp sang nhà Nguyên đính ước đến năm sau nhà vua sẽ sang
chầu, nhưng nhà vua quả quyết không đi, nên nay nhà Nguyên lại sai Lại Bộ thượng
thư Lương Tăng, Lễ bộ thượng thư Trần Phu sang nước ta. Khi đến nơi, nhà vua (tức
Trần Anh Tông) muốn cho sứ bộ đi theo cửa bên cạnh vào triều, Lương Tăng không
nghe, trở đi trở lại đến ba lần, sau mới cho đi cửa giữa. Lương Tăng trách nhà
vua chỉ có giấy tờ suông trang sức những lời xảo trá, và khuyên vào chầu, nhưng
nhà vua không theo, rồi sai Đào Tử Kỳ đem phẩm vật địa phương sang cống. Bầy
tôi nhà Nguyên lấy cớ rằng nhà vua nhất định không chịu sang chầu, nên người
nào cũng bàn đem quân sang đánh, họ bắt giam Tử Kỳ ở Giang Lăng rồi hạ lệnh cho
Lưu Quốc Kiệt cùng các tước vương là bọn Y Lặc, Cát Đại chỉnh bị binh lương,
chia đường cùng tiến, lại sai Ích Tắc đi theo. Khi quân đến Trường Sa, thì gặp
lúc Thế Tổ nhà Nguyên mất, Thành Tông lên làm vua, bèn bãi binh mà cho Tử Kỳ về
nước.
[...]
Ất
Mùi, năm thứ 3 (1295). (Nguyên Thành Tông, năm Nguyên Trinh thứ 1). Tháng 2,
mùa xuân. Sứ thần nhà Nguyên sang. Thành Tông nhà Nguyên mới lên làm vua, sai
thị lang Lý Khản và Tiêu Thái Đăng đem thư sang nước ta, đại lược nói: “Thiên tử
mới lên ngôi, ra ơn đại xá, đã hạ lệnh cho các quan có trách nhiệm phải bãi
binh. Vậy từ nay về sau nên nhớ kỹ đến cái đạo sợ uy trời, thờ nước lớn”. Nhà
vua sai Viên ngoại lang là Trần Khắc Dụng và Phạm Thảo sang bên Nguyên đáp lễ”.
Nguyên
Sử (Quyển 209 - Ngoại di 2, mục An Nam) chép:
“Năm
thứ ba mươi (1293), bọn Lương Tằng đi sứ về, Nhật Tốn (tức tên trên giấy tờ ngoại
giao với nhà Nguyên của Trần Nhân Tông) sai bồi thần là bọn Đào Tử Kỳ sang cống.
Đình thần vì cớ Nhật Tốn vẫn không chịu sang chầu, lại nghị sang đánh. Bèn câu
lưu bọn Tử Kỳ ở Giang Lăng, sai Lưu Quốc Kiệt cùng chư hầu vương là bọn Diệc Lý
Cát Đài cùng chinh [phạt] An Nam, sắc đến Ngạc Châu cùng bàn với Trần Ích Tắc.
Tháng Tám, bọn Bình chương Bất Hốt Mộc tâu lập Hồ Quảng An Nam hành sảnh, cấp
cho hai con dấu, mua một ngàn chiếc thuyền một trăm hộc của người tộc Đản, dùng
quân năm vạn sáu ngàn năm trăm bảy mươi người, ba mươi lăm vạn thạch lương, hai
vạn thạch thức ăn cho ngựa, hai mươi mốt vạn cân muối, binh khí khoảng hơn bảy
mươi vạn món, tạm cấp trước lương bổng cho quan quân, mỗi quân nhân, thủy thủ đều
được nhận hai đĩnh. Quốc Kiệt thiết lập mạc liêu gồm mười một người, chia hai
đường thủy bộ cùng tiến. Lại lấy Giang Tây hành khu mật viện phó sứ Triệt Lý
Man làm Hữu thừa, theo đi đánh An Nam, bọn Trần Nham, Triệu Tu Kỳ, Vân Tòng
Long, Trương Văn Hổ, Sầm Hùng cũng được lệnh cùng dự việc. Ích Tắc theo quân đến
Trường Sa, vừa khi ấy thì triều đình tạm đóng quân dừng lại.
Tháng
Năm, năm ba mươi mốt (1294), (Nguyên) Thành Tông lên ngôi, mệnh bãi việc chinh
chiến, sai Đào Tử Kỳ về nước. Nhật Tốn sai sứ dâng biểu điếu viếng, và cống
phương vật. Tháng Sáu, (triều đình) sai bọn Lễ bộ thị lang Lý Khản, Binh bộ
lang trung Tiêu Thái đem chiếu chỉ sang phủ dụ, đại lược nói: “Tiên Hoàng đế [tức
Nguyên Thế Tổ] mới vừa rời bỏ thiên hạ, trẫm nối giữ đại thống, vừa mới lên
ngôi, rộng ban ân xá, không phân xa gần. Đất An Nam ngươi, cũng được khoan thứ,
đã sắc cho hữu ty bãi binh, sai bồi thần Đào Tử Kỳ về nước. Từ nay trở đi, khá
biết sợ oai trời mà phụng sự đại quốc, hãy suy xét cho kỹ!”.
Tạm
bỏ qua những sai khác về mặt thời gian, cũng như chút nhầm lẫn (trong An Nam
Chí Lược và Nguyên Sử) về tên các đời vua nhà Trần đương thời, chúng ta có thể
nhận thấy một điều rằng: chỉ có An Nam Chí Lược là ghi chép chi tiết triều đình
nhà Trần “trông về cửa khuyết (nhà Nguyên) mà lạy tạ ơn”. Rõ ràng, Lê Tắc là
người của thời đại này, gọi ông là nhân chứng sống cũng không hẳn quá lời. Tuy
nhiên, như đã nói ở lời dẫn, “Lê Tắc đã quên mất mình là người Việt, hắn đứng
trên lập trường và quan điểm của nhà Nguyên mà soạn ra bộ tư sử này”, do đó,
hoàn toàn có khả năng Lê Tắc chỉ đang xảo ngôn, trong khi chép sử về mối quan hệ
bang giao giữa “thiên triều” với “chư hầu” mà thôi. Giả thuyết của tôi càng được
củng cố thêm, khi nhận thấy chính trong An Nam Chí Lược vẫn thường “khôn khéo”
che giấu đi nhiều chi tiết gây bất lợi đối với nhà Nguyên, điều này cũng được
PSG.TS Chương Thâu đồng ý (2), lại nữa, chính Nguyên Sử cũng không đề cập đến chi
tiết “lạy tạ ơn” mà An Nam Chí Lược đã đề cập. Tuy vậy, đó vẫn chỉ là quan điểm
chủ quan mà thôi, Lê Tắc liệu cố tình chép sai ở đoạn này (để phục vụ cho lợi
ích nhà Nguyên)? Hay thực tế việc triều đình nhà Trần “trông về cửa khuyết (nhà
Nguyên) mà lạy tạ ơn” là chi tiết có thật?
Chương
VI: Những vấn đề khác
- Lạc
Vương (hay Hùng Vương) vẫn còn tồn tại và tiếp tục cai trị, ngay cả khi nhà Triệu
đã sụp đổ?
An
Nam Chí Lược (Quyển Đệ Tứ, mục Tiền Triều Chính Khảo, tr. 40) dẫn lại Giao Châu
Ký, trong đó có đoạn: “Lúc ấy (111 TCN), đất Việt muốn tự toàn, có ba người Lạc
hầu dắt trâu, dâng một ngàn chung rượu, cầm cả sổ sách hộ tịch của ba quận Giao
Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam ra đón Phục Ba mà đầu hàng. Lộ Bác Đức cho ba người ấy
làm Thái Thú ba quận nói trên và để Lạc Vương (tôi xin nhấn mạnh) cùng Lạc Tướng
cứ trị dân như cũ”.
Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư (Ngoại kỷ, Quyển II, mục Thuật Dương Vương, tr. 41) cũng đề
cập đến, nhưng chỉ chép giản lược rằng: “Bấy giờ, nước Việt ta sai ba quan sứ đem
300 con trâu, 1.000 chung rượu và sổ hộ tịch của 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân và
Nhật Nam đến xin hàng, Lộ Bác Đức nhân đó cho ba người ấy làm thái thú ở 3 quận
để trị dân như cũ”.
Khâm
Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (Tiền biên, Quyển II, tr. 19-20) thì chép cụ
thể hơn: “Khi ấy, hai quan sứ trong nước [Nam] Việt đem trâu một trăm con, rượu
một nghìn chum và thân mang sổ hộ hai quận Cửu Chân, Giao Chỉ đến đón hàng. Bác
Đức phong cho hai quan sứ ấy làm thái thú quận Giao Chỉ và quận Cửu Chân, vẫn
được cai trị dân như trước.
Lời cẩn án: “Trước
kia, nhà Triệu khi diệt được nhà Thục, sai hai quan sứ trông coi hai quận Giao
Chỉ và Cửu Chân, thế mà, về đoạn này, Sử cũ
(chỉ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư) lại chép là “ba quan sứ đem 300 con trâu, 1.000 chung rượu và sổ hộ tịch của 3 quận Giao Chỉ, Cửu
Chân và Nhật Nam đến xin hàng”, thì thực trái ngược nhau. Nay tra sách Thủy kinh chú của Lịch Đạo Nguyên có
chép: “Năm Nguyên Đỉnh thứ 6 (111 TCN), Vũ Đế nhà Hán đặt lỵ sở chức đô úy.
Sách Giao Chỉ Thành Ký (chính là sách Giao Chỉ Ký, hay Giao Châu Ký) chép rằng:
Vua Triệu [Đà] sai hai quan sứ trông coi dân hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân. Về
sau, nhà Hán sai Lộ Bác Đức sang đánh vua [Nam
Việt], quân Lộ Bác Đức đến quận Hợp Phố, vua
Việt sai hai quan sứ đem trâu một trăm con, rượu
một nghìn chung và sổ hộ tịch hai quận ra hàng. Lộ Bác Đức phong cho hai quan sứ
làm thái thú Giao Chỉ và Cửu Chân, làm chủ các quan Lạc tướng (tôi xin nhấn mạnh)
là những người cai trị nhân dân như trước”. Nay cải chính mấy điều sai ấy của Sử cũ”.
Vậy
tôi tạm kết luận bước đầu, đoạn này Lê Tắc hoặc chép sai, hoặc ông đã chép từ một
nguồn [Giao Châu ký]
dị bản, nên mới có chi tiết “... để Lạc Vương cùng Lạc Tướng cứ trị dân như cũ”. Dù vậy, chi tiết này vẫn rất thú vị,
khi nó đã mở ra một câu hỏi mà ít ai trong
chúng ta từng nghĩ đến: Hệ thống Lạc Vương (hay
Hùng Vương) thực sự biến mất từ khi nào? Có phải từ khi Thục Phán chiếm được
Văn Lang, lập ra nước Âu Lạc (như nhiều người vẫn thường nghĩ, trong đó có cả
tôi trước đây), hay từ khi Thục Phán để mất nước vào tay Triệu Đà, lúc này hệ
thống của người Việt mới bị thủ tiêu? Hay như Lê Tắc đã chép, Hùng Vương vẫn
còn tồn tại và tiếp tục cai trị ngay cả khi nhà Triệu đã sụp đổ (111 TCN)?
-
Chuyện về một sứ giả của Lê Ngọa Triều!
Chi
tiết này chính sử nước ta không thấy chép, An Nam Chí Lược (Quyển Đệ Thập Nhất,
Gia thế họ Lê, mục Long Đĩnh, tr. 100) có đoạn:
“Tháng
3 năm thứ 3 (1010), Chí Trung (tức Lê Ngọa Triều) mất [...] Lúc ấy, sứ thần của
Chí Trung còn ở Kinh sư [nhà Tống], [Tống] Chân Tông cho biết tin và nói nếu muốn
để tang cũng cho phép. Sứ giả chỉ che mặt than khóc mà thôi”.
-
Kết luận:
Công trình nhỏ này, ngoài những đoạn chỉ ra vài điểm dị
biệt giữa An Nam Chí Lược so với chính sử Việt Nam, còn lại chỉ là lời bàn chủ quan của một kẻ ít học, mong mọi người sẽ
không câu nệ theo những quan điểm hạn hẹp ấy, mà hãy thử nhìn nhận theo một hướng
khác, rộng và cởi mở hơn. Không thể phủ nhận bộ tư sử
của Lê Tắc (tức An Nam Chí Lược) là một tác phẩm đầy giá trị, nên chúng ta thay
vì vội vàng phủ nhận một cách lý trí (điều này cũng được thấy trong các công
trình xưa của cha ông ta, mà nổi bật là Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú, các nhà bác
học trên đều có đề cập đến tác phẩm An Nam Chí Lược, song lại không đưa ra bất
kỳ lời nhận xét hay đánh giá nào), thì hãy nghiêm túc đối chiếu một cách khách
quan nhất! Tới đây, tôi xin phép được mượn vài lời
kết luận PGS.TS Chương Thâu như sau:
“Xét về phương diện làm sử, Lê Tắc cũng tỏ
ra có một khả năng sưu tầm, tích luỹ, hệ thống hoá sử liệu tốt hơn so với nhiều
cây bút viết sử ngày xưa. Lê Tắc ghi chép được nhiều sử liệu, nhiều tên tuổi cần
thiết cho sự tra cứu của chúng ta ngày nay. Lê Tắc cũng đã đi vào nhiều lĩnh vực
mà nhiều cuốn sử, cuốn chí ngày trước không đề cập đến. Giá trị của An Nam Chí
Lược về mặt tư liệu là cần được khẳng định, dù chỉ là sơ lược, nhưng rồi có được
một chi tiết nào đáng gợi ý, cũng phải xem là quý giá rồi” (sđd,
tr. 61).
--------------------------------------------------------------------------------------------------------
1:
Bài chiếu vua Tống Thái Tông gửi cho Lê Hoàn
năm 983, được chép trong Tống Sử (Quyển 488 - Ngoại quốc 4, mục Giao Chỉ), nay xin được trích dẫn: “Họ Đinh truyền tập ba đời, gìn giữ một phương, khanh (chỉ Lê
Hoàn) đã chịu lời trông cậy, làm bề tôi tâm
phúc, theo lời thỉnh cầu của người trong nước, chẳng phụ lòng của họ Đinh. Trẫm
muốn cho Toàn giữ ngôi Thống soái, mà khanh thì nhậm chức phó thứ hai, mọi việc
chuyên chế sắp đặt, thảy đều giao cho khanh cả. Đợi đến khi Đinh Toàn đến tuổi
đội mũ, có thể tự lập được, thì sự giúp rập của khanh, đức
lớn sáng ngời, công trung khen chuộng,
trẫm không có gì phải nuối tiếc nữa! Dù Đinh Toàn không tài làm tướng, trẻ dại như xưa, nhưng kế tập nối đời, đã dài năm tháng, một khi vứt bỏ tiết việt, giáng xuống sĩ
binh, thì lý đã không phải, mà ở ắt chẳng yên. Chiếu này đến nơi, khanh
nên sai mẹ con Đinh Toàn cùng người thân thuộc đều sang cả nước ta. Đợi khi vào
chầu rồi, ta sẽ lựa ngày giáng chiếu, ban cho
khanh tiết mao. Phàm hai đường ấy, khanh nên xem xét mà lựa lấy một. Đinh Toàn đến kinh, ta tất gia thêm sủng lễ. Nay, sai Cung phụng
quan Trương Tông Quyền đem chiếu dụ này
tới, khá tỏ hết ý trẫm”.
2:
PGS.TS Chương Thâu khi giới thiệu về Quyển Đệ Tứ của An Nam Chí Lược, nói rằng:
“Phần đầu là mục “Chinh thảo vận hướng” kể những chuyến ra quân của triều
Nguyên. Những trận mà quân Nguyên ào ạt tấn công chiếm được Thăng Long, quân ta
phải rút lui chiến lược vào Thanh Hoá thì được nhắc đến như những chiến công
vang dội. Bọn Việt gian chạy ra đầu hàng đều được mô tả như những kẻ thức thời.
Những trận quân Nguyên bị thua thì cho rằng chỉ là việc lui quân không có viện
binh, nên để lương thảo chìm sạch, rồi vì xứ đất nóng nực, ẩm ướt nên phải kéo
quân về. Cách tường thuật như thế là để đỡ bẽ mặt cho Thoát Hoan” (sđd, tr. 57).
Nhận xét