QUY TẮC NGẦM TRONG SỬ SÁCH VIỆT NAM

Đọc qua lịch sử Việt Nam, ta sẽ thấy rằng, những ông vua chính thống, lên ngôi trong hoàn cảnh bình thường thì lai lịch ra đời cũng rất bình thường, cùng lắm chỉ là một giấc mộng lạ của người mẹ khi mang thai hoặc vài điềm tốt lúc sinh nở.


Ngược lại, những ông vua lên ngôi bất thường, chẳng hạn các ông vua khai nghiệp của một triều đại, hoặc những ông vua được đưa lên ngôi sau một cuộc binh biến chốn cung đình, sẽ thường có lai lịch thần kỳ hoặc điềm lạ đính kèm để bồi đắp uy tín, thu phục lòng người.

Trước hết, hãy bàn về các ông vua khai nghiệp.

Đinh Tiên Hoàng từng được rồng vàng che chở khi gặp nguy hiểm: “Người chú của vua giữ sách Bông chống đánh với vua. Bấy giờ, vua còn ít tuổi, thế quân chưa mạnh, phải thua chạy. Khi qua cầu ở Đàm Gia Nương Loan, cầu gãy, vua rơi xuống bùn, người chú toan đâm, bỗng thấy hai con rồng vàng hộ vệ vua, nên sợ mà lui. Vua thu nhặt quân còn sót, quay lại đánh, người chú phải hàng. Từ đấy ai cũng sợ phục, phàm đi đánh đến đâu đều dễ như chẻ tre, gọi là Vạn Thắng Vương”.

Câu chuyện ra đời của Lê Đại Hành luôn nhuốm màu truyền thuyết: “Trước kia cha vua là Mịch, mẹ là Đặng thị, khi mới có thai chiêm bao thấy trong bụng nở hoa sen, chỉ chốc lát đã kết hạt, bèn lấy chia cho mọi người, còn mình thì không ăn, tỉnh dậy không hiểu nguyên do thế nào. Đến khi năm Thiên Phúc thứ 6 thời Tấn [941] là năm Tân Sửu, mùa thu, tháng bảy, ngày 15, sinh ra vua. Đặng thị thấy tướng mạo khác thường, bảo với mọi người rằng: “Thằng bé này lớn lên, ta sợ không kịp hưởng lộc của nó”. Được vài năm thì mẹ chết, sau đó cha cũng qua đời, trơ trọi một thân, muôn vàn cô đơn đói rét. Trong thôn có viên quan sát họ Lê trông thấy lấy làm lạ, nói: “Tư cách đứa trẻ này, người thường không sánh được”. Lại thấy là cùng họ nên nhận làm con nuôi, sớm chiều chăm sóc dạy dỗ, không khác gì con đẻ. Có đêm mùa đông trời rét, vua úp cối mà ngủ. Đêm ấy ánh sáng đẹp đầy nhà, viên quan sát lén đến xem, thì thấy con rồng vàng che ấp bên trên, vì thế lại càng thêm quý trọng”.

Lý Thái Tổ là con của thần nhân, có con chó trên lưng có chữ thiên tử: “Vua Họ Lý, tên húy là Công Uẩn, người châu Cổ Pháp, Bắc Giang, mẹ họ Phạm, đi chơi chùa Tiêu Sơn cùng với người thần giao hợp rồi có chửa”, “Trước ở viện Cảm Tuyển chùa Ứng Thiên Tâm, châu Cổ Pháp có con chó đẻ con sắc trắng có đốm lông đen thành hình hai chữ “Thiên tử”. Kẻ thức giả nói đó là điềm năm Tuất sinh người làm thiên tử. Đến nay, vua sinh năm Giáp Tuất lên làm thiên tử, quả là ứng nghiệm”.

Lê Thái Tổ thì các câu chuyện ra đời thường liền gắn với hổ. Sách Lê Triều ngọc phả ghi lại câu chuyện này như sau: “Xưa kia, ngày Đức Thái Tổ chưa sinh, bà ngoại là Trịnh Thị Ngọc Dung sống ở thôn Thủy Chú, huyện Lôi Dương. Hồi đó là vào năm Xương Phù thứ 7 (1383), đời Vua Trần Phế Đế, vào đêm 7 tháng 2 năm Quý Hợi, có một con hổ bước vào nhà kéo cụ đến xứ Bồn Quái trong núi, thấy con hổ to lông vàng vằn đen nằm trước đó rồi. Con hổ đó đứng ngồi không yên. Cụ bà thấy vậy liền hỏi: Có phải mày khó đẻ phải không? Con hổ gật đầu. Cụ bà liền vẫy con hổ dẫn đi lấy thuốc về hòa nước cho uống. Trong chốc lát con hổ đẻ ra một cái thai đã chết. Cụ lại lấy nước xa rảy khắp người con hổ, bấy giờ con hổ mới nằm yên. Con hổ lại cõng cụ về nhà. Đêm hôm sau, thấy một chiếc ấn hổ đặt ở trước sân, cụ biết là con hổ báo ơn đêm hôm trước”. Câu chuyện thứ 2, vẫn trong sách Lê triều ngọc phả viết rằng: “Đế sinh giờ Tý, ngày 6 tháng 8 năm Ất Sửu (năm 1385) ở thôn Thủy Chú. Trước đó còn gọi là Sa Kỳ, cây cối tốt tươi, có một cây quế rất cao, vươn cao hơn cả mọi loại cây khác. Cây quế đó mọc ở núi Du Sơn. Ở đó, có một con hổ đen, sống chung với người đến 10 năm chưa từng hại một ai. Khi Đế sinh ra thì không thấy con hổ đen ấy đâu nữa. Mọi người đều lấy làm lạ”.

Nguyễn Nhạc được trời cho ban ấn kiếm: “Nguyên một hôm, Nguyễn Nhạc cùng bộ hạ ở An Khê về đến Hoành Sơn thì ngựa Nguyễn Nhạc lồng lên, rồi thẳng cổ phi nước đại. Đến chân núi phía trong gò Sặt, cương ngựa bị đứt Nguyễn Nhạc té nhào xuống ngựa, trật chân không đứng dậy được. Khi đứng dậy để lên ngựa thì Nguyễn Nhạc chợt thấy chuôi kiếm ló ra nơi vách đá trên sườn núi. Sai người lên xem thì là một thanh cổ kiếm, lưỡi sáng như nước. Ai nấy đều mừng là kiếm trời ban. Do tích được kiếm của Nguyễn Nhạc tại đây nên núi mang tên là hòn Kiếm Sơn”.

Vua Gia Long có vô số câu chuyện được động vật cứu thoát trong cơn nguy hiểm: “Năm 1783, bị Tây Sơn rượt đuổi, Nguyễn Ánh lội qua sông Đặng (Vàm Cỏ) gặp cá sấu, vua vội nhảy lên một con trâu trên bờ cỡi qua sông và thoát được. Lại có lần vua chuẩn bị ra khơi, thì một con cá nhỏ nhảy tung vào thuyền, cũng có lúc một bầy rắn đội thuyền lên, lại có lúc bị một con kỳ đà “cản mũi”... Những lúc đó ai cũng coi việc ấy là “điềm xấu xuất hành” và làm cho Nguyễn Ánh cùng đám quan quân chùn chân. Nhưng chính nhờ những “điềm xấu” ấy đã cứu vua thoát hiểm không biết bao nhiêu lần khỏi bị quân Tây Sơn chặn bắt ngoài biển”.

Tiếp đến, là các ông vua được đưa lên ngôi sau một cuộc binh biến, tức có địa vị không vững chắc.

Như Lý Thái Tông làm vua sau loạn Tam Vương, được chính sử ghi chép với rất nhiều câu chuyện kỳ lạ: “Khi vua mới sinh, ở phủ Trường Yên có con trâu của nhà dân tự nhiên thay sừng khác, người ấy cho là điềm không lành, lấy làm lo. Có người giỏi chiêm nghiệm đi qua nhà ấy cười mà nói: “Đó là điềm đổi mới, can dự gì đến nhà anh”. Người ấy mới hết lo”, Vua có bảy cái nốt ruồi sau gáy, như sao thất tinh”, “Năm Thuận Thiên thứ 3 [1012], phong làm Khai Thiên Vương, cho ra ở bên ngoài. Năm thứ 11 [1020] cho làm Nguyên soái đi đánh Chiêm Thành có trại Bó Chính. Đại quân vượt biển, đến núi Long Tỵ có rồng vàng hiện ở thuyền ngự, chỉ một mình vua đỡ lấy con rồng. Đến nơi, đánh tan quân Chiêm, bắt được tướng đem về. Năm thứ 19, mùa xuân, tháng 3, ngày mùng 1 Bính Thân, vua lấy áo ngự ban cho Trần Tuệ Long là đạo sĩ ở quán Nam Đế. Đêm ấy có ánh sáng khắp trong quán. Tuệ Long kinh ngạc dậy xem thì thấy rồng vàng hiện ở mắc áo” .

Lê Thánh Tông được lập làm vua sau loạn Lê Nghi Dân, chính là Kim Tiên đồng tử: “Mẹ vua là Quang Thục Hoàng thái hậu Ngô thị, người làng Động Bàng, huyện Yên Định, phủ Thanh Hóa. Trước kia, khi còn là Tiệp dư, Thái hậu đi cầu tự, mơ thấy thượng đế ban cho một tiên đồng, thế rồi có thai. (Tục truyền rằng Thái hậu khi sắp ở cữ, nhân thử thả chợp mắt, mơ thấy mình đến chỗ Thượng đế, Thượng đế sai một tiên đồng xuống làm con Thái hậu, tiên đồng chần chừ mãi không chịu đi, thượng đế giận, lấy cái hốt ngọc đánh vào trán chảy máu ra, sau tỉnh dậy, rồi sinh ra vua, trên trán vẫn còn dấu vết lờ mờ như thấy trong giấc mơ, mãi đến khi chết, vết ấy vẫn không mất)”.

Minh Mạng lên ngôi sau sự phản đối của nhiều đại thần (như Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành), tự bảo quần thần rằng mình nằm mơ thấy các công thần triều trước đứng hầu mình. Đại Nam thực lục dẫn lời vua như sau: “Khi trẫm mới lên ngôi, từng nằm nệm rơm tại điện Quang Minh, nằm mơ thấy các quan đội mũ mặc áo, đứng la liệt ở dưới thềm. Trẫm nghĩ rằng nhà Lương am không phải là chỗ triều hội, sai hỏi, và đòi áo mũ để ra, thì thấy các quan giữ việc ở trước đều không phải là người quen mặt. Phải chăng là các công thần ngày trước âm thầm phủ hộ ru”. Trước đó, chính sách này cũng nhắc đến việc vua Minh Mạng kể về giấc mơ nhìn thấy tiên đế. Trong mơ, Thế Tổ Cao hoàng đế bảo hãy mang cho ông kim sách sắc phong tôn hiệu mà quần thần đã đặt cho ông.




Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

MỘT NGỘ NHẬN SAI LẦM VỀ TIỀN GIẤY

NGHI VẤN VỀ ĐẠI VIỆT SỬ KÝ CỦA LÊ VĂN HƯU

ĐỐI CHIẾU AN NAM CHÍ LƯỢC VỚI CHÍNH SỬ VIỆT NAM